Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Địa lí - Nguyễn Thị Minh Tuệ

doc 10 trang Đăng Bình 08/12/2023 1720
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Địa lí - Nguyễn Thị Minh Tuệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_di.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Địa lí - Nguyễn Thị Minh Tuệ

  1. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề CHUYÊN ĐỀ SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ Phần I: Đặt vấn đề: Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết về Trái Đất và những hoạt động của con người trên bình diện quốc gia và quốc tế, làm cơ sở cho hình thành thế giới quan khoa học; giáo dục tư tưởng tình cảm đúng đắn; đồng thời rèn luyện cho học sinh các kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã hội, phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế của thời đại. Cùng với các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức trách nhiệm, lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người. Địa Lý THCS tìm hiểu về một số nội dung sau: + Trái Đất - Môi trường sống của con người (cấu tạo, vận động, các thành phần tự nhiên và tác động qua lại giữa chúng, một số qui luật của môi trường tự nhiên trên Trái Đất) + Thiên nhiên và con người ở các Châu lục (các hoạt động của dân cư trên Trái Đất; mối quan hệ giữa dân cư, hoạt động sản xuất và môi trường, đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của một số khu vực, quốc gia trên thế giới). + Địa lí Việt Nam (đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của đất nước, của các vùng và địa phương nơi HS đang sống). Tất cả những kiến thức này đều có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau, đòi hỏi ở người học không chỉ khả năng tiếp nhận thông tin đơn thuần mà cần biết cách phân tích, so sánh, liên kết các vấn đề để tìm ra kiến thức. Khi chương trình và sách giáo khoa đã đổi mới, tất yếu phương pháp dạy học bộ môn cũng phải đổi mới theo. Do đó, phương pháp dạy học Địa lí theo định hướng mới, sách giáo khoa mới không chỉ buộc học sinh phải “mới” 1 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  2. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề trong cách học mà còn buộc giáo viên phải “mới” trong cách dạy. Theo đó, giáo viên cần đầu tư nhiều hơn về thời gian và trí tuệ trong bài dạy, vừa để làm rõ những nội dung kiến thức ẩn chứa ở kênh hình, kênh chữ, cũng như tìm ra cách thức và phương pháp nhằm hướng dẫn cho học sinh cách tự khai thác và lĩnh hội kiến thức. Bên cạnh việc chú ý phát triển ở học sinh các kĩ năng bộ môn (kĩ năng làm việc với các thiết bị dạy học, các nguồn tư liệu địa lí ) việc rèn luyện kĩ năng làm việc độc lập, làm việc nhóm, kĩ năng trình bày, giải quyết vấn đề cũng hết sức quan trọng và đặc biệt là phát triển kỹ năng tư duy. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả giờ lên lớp môn địa lí? Điều đó luôn luôn là suy nghĩ của những ai gắn bó với nghề dạy học. Trong các phương pháp dạy học hiện nay thì việc sử dụng bản đồ tư duy ( BĐTD) của Tony Buzan là một trong những phương pháp mà Bộ GD-ĐT cũng như nhiều giáo viên quan tâm Vậy trong ngành dạy học nói chung và bộ môn Địa lí nói riêng sử dụng bản đồ tư duy như thế nào để có được hiệu quả cao nhất? Tôi đã mạnh dạn chọn chuyên đề này để cùng nhau trao đổi, tham khảo tài liệu nhằm đưa ra vài phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học địa lí nhằm đạt được kết quả tốt hơn trong giảng dạy. Phần II. Cơ sở lí luận: I.Vài phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học địa lí: 1/ Khái niệm bản đồ tư duy là gì? Bản đồ tư duy ( Mind map ) là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết để tổng hợp hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của vấn đề phân nhánh. Khác với máy tính ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính ( ghi nhớ theo một trình tự nhất định ) thì bộ não có khả năng tạo sự liên kết các dữ liệu với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ não. Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng bản đồ tư duy, tổng thể của một vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình vẽ, trong đó các đối tượng liên hệ với nhau băng các đường nối, với cách biểu diễn như vậy các dữ liệu được ghi nhớ và hấp thu dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn. 2 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  3. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều, bản đồ tư duy biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của một đối tượng, sự quan hệ hổ tương giữa các khái niệm có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong một vấn đề. Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của bạn rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là phương pháp ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng ý nghĩa của nó: Sắp xếp ý nghĩ của bạn. 2/Bản đồ tư duy giúp gì cho bạn: Các nhà nghiên cứu cho rằng với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não Bản đồ tư duy giúp: 1/ Sáng tạo hơn 2/ Tiết kiệm thời gian hơn 3/ Ghi nhớ tốt hơn 4/ Nhìn thấy bức tranh tổng thể 5/ Tổ chức và phân loại suy nghĩ của bạn 3/ Xác định những thuận lợi và khó khăn, vướng mắc cần giải quyết: *Thuận lợi: BĐTD được sử dụng phù hợp với mọi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, lớp học. Giáo viên và học sinh có thể thực hiện BĐTD trên bảng phấn, trên vở, trên giấy, bìa, bảng phụ, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm. Khai thác tính năng và sử dụng BĐTD có hiệu quả là góp phần đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin một cách dễ dàng và thiết thực. *Khó khăn:Có thể nói khó khăn lớn nhất trong một tiết học Địa lý đó là trong vòng thời gian 45 phút Giáo viên phải rèn luyện, phát triển kĩ năng đọc, phân tích bản đồ, lược đồ, biểu đồ, bảng số liệu để khai thác tri thức và phát triển tư duy trong quá trình học tập. Học sinh phải hệ thống hóa được kiến thức đã học, đặt biệt là mối quan hệ giữa các yếu tố địa lý. Chính vì thế mà việc hướng dẫn học sinh, cho học sinh vẽ bản đồ tư duy, rèn luyện cách đọc bản đồ tư duy ở trên lớp là rất khó. Vì vậy tìm ra vướng mắc , khó khăn để tháo gỡ và giải quyết vấn đề tổ chúng tôi đã thực nghiệm một số biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại, khó khăn trong việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học địa lý . 4/ Cơ sở thực tiễn: Thiết kế bài giảng đảm bảo yêu cầu chung về việc chuẩn bị sử dụng bản đồ tư duy trong giờ học địa lý. A - Trên lớp: 3 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  4. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề * Trong từng tiết học: Có kế hoạch sử dụng bản đồ tư duy ( đơn giản ) để học sinh làm quen với bản đồ tư duy cũng như cách vẽ và đọc bản đồ tư duy.Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. Giáo viên thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được 1 phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh được thâu tóm trên BĐTD mà không bị sót ý. Ví dụ trong bài : Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp ( Địa 9). Nếu giáo viên trình bày theo phương pháp truyền thống thì vấn đề trình bày sẽ dàn trải hết nhân tố này đến nhân tố khác, học sinh sẽ không nhớ được các nhân tố đồng thời không thấy được mối quan hệ giữa các nhân tố. Giáo viên dạy và trình bày bài này theo hướng sử dụng BĐTD ở phần bảng phụ bằng hệ thống câu hỏi tổng hợp để học sinh trả lời được : Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp được chia thành 2 nhóm các nhân tố tự nhiên và các nhân tố KT-XH. Đồng thời với câu trả lời của học sinh GV vẽ 2 nhánh cấp 1. Tất nhiên trong vở học sinh không thể vẽ một bản đồ tư duy ngoằn ngoèo mà GV nói chúng ta tìm hiểu các nhân tố tự nhiên trước và cho HS ghi phần I/ Các nhân tố tự nhiên,Tiếp đó GV cho HS nêu các nhân tố tự nhiên hoặcKTXH bao gồm những nhân tố nào, đồng thời vẽ ra tiếp các nhánh cấp 2. Sau đó GV cho HS tìm hiểu từng nhân tố và tiếp tục thể hiện trên bản đồ tư duy các nhánh cấp 3,4 đồng thời cho HS ghi vào vở từng nhân tố. Việc thể hiện tất cả các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp xung quanh từ trung tâm đã mang lại cái nhìn tổng thể về các nhân tố ảnh hưởng đến nông nghiệp và có thể ghi nhớ một cách dễ dàng không máy móc.Học sinh lại cũng thấy được các nhân tố tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và phân bố nông nghiệp còn các nhân tố kinh tế- xã hội lại có vai trò quyết định sự phát triển và phân bố nông nghiệp. Sử dụng BĐTD để thể hiện phần nội dung này là hợp lí vì yêu cầu phù hợp với mọi đối tượng học sinh, thông tin đầy đủ, không mất nhiều thời gian và nội dung được thể hiện rõ ràng. Với cách học này cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên BĐTD , vừa tổ chức cho học sinh khai thác kiến thức vừa hoàn thành BĐTD. Học sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, trả lời câu hỏi, đọc sách giáo khoa, ghi chép sự tập trung chú ý được phát huy, cường độ học tập theo đó cũng được đẩy nhanh, học sinh học tập tích cực hơn và thông qua bài này giáo viên cũng đã cho học sinh làm quen với BĐTD cũng như cách đọc BĐTD 4 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  5. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề * Cuối một tiết học: Chú ý hệ thống câu hỏi trong phần củng cố để hướng dẫn học sinh trả lời theo hướng sử dụng BĐTD để hệ thống hóa kiến thức đã học Sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức bài học là vệc làm rất có hiệu quả. Giáo viên sử dụng BĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc sâu những kiến thức trọng tâm. Học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết của mình qua việc tiếp thu nội dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh giá nhận thức của học sinh, định hướng cho từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình cho phù hợp. Ví dụ: Sau khi học xong bài Vùng Trung du và Miền núi Bắc bộ (Địa 9), học sinh phải nắm được các vấn đề về vị trí, giới hạn, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, đặc điểm dân cư- xã hội và rút ra nhận xét (điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư- xã hội của vùng kinh tế này có những thuận lợi, khó khăn gì cho sự phát triển kinh tế .). Giáo viên có thể củng cố bài bằng 5 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  6. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề cách cho HS vẽ bản đồ tư duy về vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ; nếu thời gian hạn chế có thể cho mỗi nhóm chỉ thể hiện một vấn đề của vùng như tự nhiên hoặc dân cư- xã hội * Trong các tiết học sau GV có thể kểm tra bài cũ bằng cách sử dụng bản đồ tư duy, Thông thường thời gian kiểm tra bài cũ chỉ giới hạn trong vòng 5 phút,GV có thể chuẩn bị một BĐTD còn thiếu thông tin và cho học sinh bổ sung hoặc chọn một phần nội dung cho HS vẽ BĐTD Ví dụ: Giáo viên vẽ BĐTD về cơ cấu các loại rừng nước ta và để thiếu thông tin về chức năng hoặc phân bố một loại rừng nào đó cho HS bổ sung; cũng có thể GV cho HS vẽ BĐTD nêu các nhân tố KT-XH ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố Công nghiệp.Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. * Thường xuyên cho học sinh tiếp cận với bản đồ tư duy cả trong quá trình kiểm tra bài cũ, giảng bài mới, củng cố bài, chuẩn bị bài mới ở nhà để giúp học sinh vẽ, đọc được bản đồ tư duy. Qua đó học sinh hứng thú học tập, rèn luyện được những kĩ năng sống cần thiết như kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tư duy. B- Ở nhà: - Dựa vào nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, các tài liệu tham khảo, chúng tôi chú trọng những vấn đề sau: + Lựa chọn đúng những kiến thức trọng tâm trong từng mục, từng bài, từng nhóm bài để xây dựng bản đồ tư duy . + Xác lập những mối quan hệ cơ bản giữa các đối tượng địa lí để vẽ bản đồ tư duy 5/ Vài phương pháp hướng dẫn học sinh vẽ và đọc bản đồ tư duy: A- Phương pháp vẽ bản đồ tư duy: * Dùng bút màu bắt đầu từ giữa trang giấy nếu thuận tiện đặt ngang tờ giấy để có nhiều khoảng trống ở hai bên hơn, sau đó thực hiện các bước sau: 1/ Viết theo kiểu chữ in chủ đề hoặc ý tưởng chính ở giữa trang giấy, sau đó đóng khung băng hình tròn, hình vuông hoặc hình chữ nhật Nếu có thể chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh chủ đề vì một hình ảnh có thể diễn đạt cả nghìn từ và giúp bạn sử dụng trí tưởng tượng của mình . Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp ta tập trung vào chủ đề và làm cho chúng ta hưng phấn hơn . 2/ Luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc củng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. 6 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  7. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề 3/ Từ trung tâm kéo các nhánh chính ( cấp 1) ra , mỗi nhánh dùng diễn tả một điểm quan trọng nhất hoặc ý tưởng chính. Viết một từ hoặc một cụm từ chính lên mỗi nhánh. Cụm từ chính là cụm từ chuyển tải được phần hồn của một ý tưởng và kích thích bộ nhớ của chúng ta . Sau đó từ các nhánh cấp 1 kéo các nhánh cấp 2 ra. Số nhánh phụ thuộc các ý tưởng. Tiếp đến là các nhánh cấp 3, 4 các đường kẻ càng gần hình ảnh (hoặc chủ đề) trung tâm thì càng được tô đậm hơn . 4/ Nên dùng đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều . 5/ Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm (hoặc chủ đề trung tâm) * Các bước rèn luyện học sinh vẽ bản đồ tư duy : - Trong những tiết học đầu giáo viên trình bày một vài bản đồ tư duy đơn giản nhất trong bài giảng và cho học sinh biết đó là bản đồ tư duy. - Sau đó bài tập về nhà cho học sinh vẽ bản đồ tư duy về một vấn đề nào đó để học sinh củng cố kiến thức . - Tiếp theo những tiết học sau , giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị bài mới ở một vấn đề nào đó theo hướng sử dụng bản đồ tư duy để học sinh có bức tranh tổng thể về một vấn đề. Đặc biệt đối với những vấn đề mang tính xã hội, môi trường. Học sinh có thể có những phát hiện sâu sắc từ thực tế và qua đó ý thức về những vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường được nâng cao. Trong môn địa lý nếu từ một hiện tượng sinh ra nhiều hệ quả hoặc cơ cấu ngành kinh tế thì học sinh có thể vẽ bất kỳ hệ quả hoặc ngành nào trước cũng được.Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh ( chủ yếu là các nhánh cấp 2,3 ), mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Ví dụ: Trong bài : “ Sự chuyển động của nước trong các biển và đại dương” 7 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  8. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề Nhưng theo chúng tôi trong các bài về tự nhiên các châu, các khu vực các yếu tố địa lý có quan hệ với nhau, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ yếu tố nào mà nó có tác động đến các yếu tố sau thì vẽ trước. Giáo viên có thể gợi ý học sinh vẽ yếu tố đó đầu tiên về vạch phương Bắc, lần lượt vẽ các yếu tố sau theo chiều kim đồng hồ để học sinh thấy được mối quan hệ giữa các yếu tố địa lý . Ví dụ : Trong bài: “Điều kiện tự nhiên khu vực Nam Á” 8 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  9. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề B - Cách đọc bản đồ tư duy môn địa lý: Từ trung tâm đọc ra, đọc hết các nhánh ở cấp 1 trước vì đây là những ý hoặc những nội dung cơ bản của một vấn đề, sau đó quay lại đọc nội dung từng nhánh cấp 1 ra các nhánh cấp 2, 3 . Ví dụ: Ở lớp 6 Trong bài : “ Sự chuyển động của nước trong các biển và đại dương”. Học sinh sẽ đọc sự chuyển động của nước trong các biển và đại dương sinh ra các hiện tượng sóng, thủy triều và các dòng biển. Sau đó đọc tiếp các nhánh cấp 2: Khái niệm, nguyên nhân tác dụng, tác hại của sóng, thủy triều, dòng biển. Học sinh có thể đọc nhánh nào khác cũng được chứ không cần đọc theo thứ tự nào. Đối với chương trình địa lý các Châu, các vùng kinh tế ở lớp 7, 8 , 9 . Khi tìm hiểu về một Châu lục, khu vực, một vùng kinh tế nào đó về tự nhiên. Để học sinh thấy được mối quan hệ giữa vị trí - địa hình - khí hậu - sông ngòi - cảnh quan Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc theo trình tự mà giáo viên đã hướng dẫn học sinh vẽ. Tất nhiên học sinh cũng bắt đầu đọc hết các nhánh cấp 1 trước để thấy được nội dung chính cần tìm hiểu về một Châu, một khu vực, một vùng kinh tế và luôn có ý thức về mối quan hệ giữa các yếu tố địa lý . 9 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa
  10. Trường THCS Nguyễn Huệ Chuyên đề III/ Kết quả: Nhìn chung, có thể sử dụng BĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài về nhà; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc học cá nhân đến nhóm, tập thể Giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương trình, nội dung bài học, lựa chọn ra những phần, những bài có khả năng áp dụng BĐTD. Sau đó, giáo viên phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những vấn đề, những biểu tượng, khái niệm cần hình thành và truyền đạt cho học sinh, xác định các dạng bài tập với BĐTD phù hợp với đối tượng học sinh, quỹ thời gian, điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học.Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, tránh được lối học vẹt trong môn địa lí. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng BĐTD và cũng không phải sử dụng một cách áp đặt cho mọi giờ học. Cũng như các phương pháp dạy học khác, BĐTD cũng có những ưu điểm và hạn chế riêng của mình, do đó sử dụng BĐTD cần đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Do đó, giáo viên cần có sự linh hoạt trong sử dụng BĐTD, cần xác định một số căn cứ để sử dụng BĐTD cho phù hợp. IV / KẾT LUẬN: Trên đây chỉ là một vài trải nghiệm của chúng tôi trong một thời gian rất ngắn về phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học địa lý nhằm giúp học sinh phát triển khả năng tư duy, sáng tạo khi chuẩn bị bài, khi học bài mới cũng như hệ thống hóa kiến thức sau khi học một bài, một chương. Rất mong các thầy cô góp ý để việc sử dụng phương pháp này ngày càng hiệu quả. 10 GV: Nguyễn Thị Minh Tuệ Tố Sử Địa