Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS - Nguyễn Thị Kim Dung

doc 29 trang thuongdo99 2710
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS - Nguyễn Thị Kim Dung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_he_thong_cau_hoi_de_phat_huy_t.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS - Nguyễn Thị Kim Dung

  1. Cộng hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - tự do - hạnh phúc ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. SƠ YẾU Lí LỊCH: Họ và tờn: Nguyễn Thị Kim Dung Sinh ngày: 24 - 10 - 1967 Năm vào nghành: 1987 Ngày vào Đảng: 16 - 9 - 1994 Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng tổ khoa học Xó hội trường THCS Sơn Đà - Ba Vỡ - Hà Nội. Trỡnh độ chuyên môn: ĐHSP Hệ đào tạo: Từ xa Bộ mụn giảng dạy: Lịch Sử khối 8,9. Ngoại ngữ: Trỡnh độ chính trị: Sơ cấp Khen thưởng: Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. 1
  2. MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 1 Sơ yếu lí lịch 01 2 Mục lục 02 3 A. Phần mở đầu 03 I . Đặt vấn đề 03 II. Nhiệm vụ nghiên cứu 05 III. Phạm vi và thời gian nghiên cứu 05 4 B. Giải quyết vấn đề 06 I. Thực trạng dạy và học lịch sử. 06 II. Một số giải pháp thực tế 10 III. Kết quả thực hiện 20 IV. Bài học kinh nghiệm 22 5 C. Phần kết luận 24 I. Những điều rút ra từ sáng kiến kinh nghiệm 24 II. Một số kiến nghị 24 7 Tài liệu tham khảo 26 8 Đánh giá của hội đồng khoa học 27 2
  3. ĐỀ TÀI “ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ” A. PHẦN MỞ ĐẦU I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận: Trong nhiều năm qua, ngành giáo dục đó tổ chức nhiờ̀u hội thảo, chuyên đề về “ Phương pháp dạy học tích cực”. Trong đó dạy học tích cực là học sinh tích cực hóa trong các hoạt động học tập của ḿnh thông qua sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn của giáo viên: Học sinh chủ động t́m ṭi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ nhận thức có ư thức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kỹ năng đă thu nhận được. Khác với các bộ môn khoa học khác. Đặc thù của bộ môn Lịch sử là học sinh phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch sử khác nhau, với những nhân vật, địa danh lịch sử không chỉ của Việt Nam mà của cả thế giới. Hơn thế, khối lượng kiến thức của bộ môn Lịch sử ngày càng nhiều thêm. Nếu như học sinh trước đây, chỉ phải tiếp cận đến phần Lịch sử Thế giới và Lịch sử Việt Nam đến những năm 90 của thế kỷ XX. Th́ học sinh đang học ở thời điểm này phải tiếp nhận thêm: Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam (từ năm 1991 đến nay). Trong lúc, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đă diễn ra biết bao nhiêu là sự kiện. Trong khi yêu cầu đối với người học cần phải nhớ các sự kiên, nhân vật lịch sử, phải hiểu nội dung một cách chính xác, đầy đủ. V́ vậy buộc các em cùng một lúc phải ghi nhớ nhiều kiến thức Lịch sử th́ mới đạt được kết quả cao trong quá tŕnh học tập của ḿnh. V́ thế bộ môn Lịch sử rất 3
  4. khó gây hứng thú học cho các em dẫn đến chất lượng môn Lịch sử có chiều hướng đi xuống. Muốn giải quyết được vấn đề đó, đ̣i hỏi giáo viên phải gây được hứng thú học cho các em, phải tìm ra được phương pháp dạy phù hợp để các em dễ tiếp thu kiến thức mà không bị g̣ ép. 2. Cơ sở thực tiễn Hiện nay, mặc dù đă được Nhà nước và các địa phương quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khang trang, phương tiện dạy học được mua sắm đầy đủ hơn, tuy nhiên chất lượng bộ môn Lịch sử nói riêng cũn thấp. Trong thực tế hiện nay, hầu hết học sinh chưa thực sự ham học, chưa thực sự yêu thích bộ môn Lịch sử, hầu hết chỉ đối phó tức thời. Hơn nữa một bộ phận giáo viên còn phải dạy trái môn, chưa thực sự đầu tư và tâm huyết; thậm chí một số giáo viên c̣n có phần hạn chế, chưa xác định được kiến thức cơ bản, trọng tâm của từng tiểu mục, từng bài học cụ thể, một số giáo viên chưa coi trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, khi giảng dạy c̣n nặng về truyền thụ kiến thức một chiều, thậm chí c̣n áp đặt người học. Do vậy đă tạo ra sự g̣ bó, dễ gây sự nhàm chán cho người học. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch sử? Muốn nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử phải làm như thế nào? Phải làm gì để học sinh không nhàm chán và có hứng thú học môn Lịch sử? Phải tìm phương pháp nào để có hiệu quả cho các giờ học Lịch sử? Đây không đơn thuần chỉ là những câu hỏi mà đó là cả một vấn đề giáo viên cần phải giải quyết. Đứng trước tình hình đó, là một giáo viên giảng dạy Lịch sử đã lâu năm, tham dự nhiều chuyên đề do Sở và Phòng giáo dục tổ chức, lại trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử lớp 8,9. Đây là đối tượng học sinh có nhiều diễn biến 4
  5. phức tạp trong tâm sinh lí. Chính v́ thế, tôi rất băn khoăn và có nhiều suy nghĩ về vấn đề học tập của các em. Tôi muốn nêu lên một số kinh nghiệm của bản thân trong việc: “Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS” . Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học. Nhằm nâng cao nhận thức Lịch sử cho học sinh cuối cấp đảm bảo cho các em có đủ hành trang kiến thức để bước vào cấp học Trung học phổ thông. Đây cũng là lí do tôi chọn đề tài này. II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu bản thân phải thực hiện các nhiệm vụ: - Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học Lịch sử” - Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp trao đổi rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy. - Nghiên cứu tài liệu gây hứng thú về dạy học lịch sử - Nghiên cứu tài liệu: Tâm lí học - Sách giáo khoa, sách giáo viên lịch sử lớp 8,9. - Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh học và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí. III. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: “Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực cho học sinh trong dạy học Lịch sử bậc trung học cơ sở.” Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh khối 8 và khối 9 của Trường THCS Sơn Đà. Thời gian thực hiện: Năm học 2011 – 2012. 5
  6. B. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ (THCS) 1. Ưu điểm : * Về phía giáo viên : - Đại đa số giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trường hợp (phương pháp tình huống ), phương pháp vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử - Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những bạn yếu kém được hoạt động một cách tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn học sinh khá giỏi và học sinh nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử - Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiên dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, phim đèn chiếu và từng bước ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp trong dạy học lịch sử * Về phía học sinh : - Học sinh đa số chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra như các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời các câu hỏi cuối mục trong bài cho nên khi học các em luôn chú ý để nắm chắc bài hơn. - Đa số học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đã đưa lại hiêụ quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. 6
  7. - Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo khoa các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. 2. Hạn chế : * Về phía giáo viên : - Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ , chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe ”, “thầy đọc, trò chép ”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn - Đa số giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học tức là sau khi kiểm tra bài cũ giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài qua việc nêu câu hỏi nhận thức, điều này làm giảm bớt sự tập trung, chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên. - Một số câu hỏi giáo viên đặt ra hơi khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh .Vấn đề này được thể hiện rất rõ trong hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi nhưng lại không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như thế nào vì không có hệ thống câu hỏi gợi mở vấn đề . - Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một số học sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu kém. Cho nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học của mình. 7
  8. * Về phía học sinh : - Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên văn sách giáo khoa để trả lời câu hỏi. - Học sinh còn lười học và chưa có sự say mê môn học, một số bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ , trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. - Học sinh chỉ có trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày), còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh thì học sinh còn rất lúng túng khi trả lời hoặc trả lời thì mang tính chất chung chung * Điều tra cụ thể : - Bản thân tôi đảm nhận việc giảng dạy môn lịch sử khối 8 và khối 9. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra được thực hiện thông qua hỏi đáp với những câu hỏi phát triển tư duy học sinh ở trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút Kết quả điều tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng khi trả lời. Do vậy kết quả điều tra cũng không cao. Cụ thể : 8
  9. * Kết quả khảo sát chất lượng môn lịch sử,đầu năm học 2011-2012 như sau: Giỏi Khá Tb Yếu-Kém Lớp SLHS SL % SL % SL % SL % 9A 37 5 13,5 12 32,4 16 43,3 4 10,8 9B 38 2 5,3 11 28,9 20 52,6 5 13,2 9C 34 2 5,9 12 35,3 16 47,1 4 11,8 8A 37 4 10,8 13 35,2 15 40,5 5 13,5 8B 37 2 5,4 9 24,3 18 48,7 8 21,6 8C 34 1 2,9 9 26,5 20 58,8 4 11,8 3. Nguyên nhân của thực trạng: Như vậy, nhỡn vào kết quả khảo sát chất lượng mụn lịch sử 9 đầu năm học 2011-2012 chưa cao (nếu không muốn nói là còn thấp) so với thế mạnh và tiềm năng của bộ môn. Vậy thỡ, những nguyờn nhõn nào làm cho kết quả thấp như trên? Có rất nhiều nguyên nhân (cả chủ quan lẫn khách quan), nhưng theo bản thân tôi những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trang trên, đó là: Một là: Giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử còn một số đồng chí phải dạy trái ban. Hai là: Một số giáo viên mới ra trường kinh nghiệm chưa nhiều. Ba là: Học sinh chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của bộ môn. Bốn là: Bài dạy của giáo viên chưa lôi cuốn được học sinh, chưa có sự tương tác giữa thầy và tṛ. Năm là: Thiết bị dạy học chưa đảm bảo theo yêu cầu . Sỏu là: Giáo viên sử dụng các phương pháp một cách máy móc, thiếu sự linh hoạt, chưa dựa vào đối tượng của mỡnh để đưa ra phương pháp phù hợp nhất. 9
  10. Xuất phát từ thực trạng trên, trong quá tŕnh dạy học của ḿnh tôi thấy cần tạo ra không khí học tập sôi nổi, thân thiện giữa thầy và tṛ, tạo sự hứng thú cho người học, giáo viên kịp thời nắm bắt được tâm sinh lí của học sinh. Có như vậy, học sinh mới yêu thích và có hứng thú học bộ môn Lịch sử, hiệu quả giờ dạy thu được sẽ cao hơn. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 8 VÀ LỚP 9 . 1. Nêu câu hỏi đặt vấn đề. * Đối với giáo viên : - Trước khi bước vào bài mới, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức cho học sinh. Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động viên sự chú ý, huy động các năng lực nhận thức của học sinh vào việc theo dõi bài giảng để tìm câu trả lời . Những câu hỏi này là những vấn đề cơ bản của bài học mà học sinh phải nắm. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp đầy đủ sự kiện thì học sinh mới trả lời được. Ví dụ :  Khi dạy bài 5: “Công xã Pa ri 1871”( sách giáo khoa lịch sử 8 trang 35). Giáo viên nêu câu hỏi đầu giờ : Vì sao nói “Công xã Pa ri là một hình ảnh thu nhỏ của nhà nước kiểu mới – nhà nước của dân, do dân, vì dân” để hiểu rõ vấn đề đó các em cần phải tự mình tìm hiểu kĩ vấn đề này, cách tốt nhất là tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến từ đó rút ra ý nghĩa của Công xã Pa ri  Hoặc khi dạy bài 7: Các nước Mĩ La tinh (lịch sử lớp 9 sách giáo khoa trang 29) để phần chuyển ý sang mục II gây được sự chú ý cho học 10
  11. sinh chúng ta có thể nói: Trong cơn bảo táp của cách mạng Mĩ La tinh thì hình ảnh đất nước Cu Ba đẹp như một dải lụa đào, đang bay lên giữa màu xanh của trời biển Ca ri bê với nắng vàng rực rỡ, đó chính là Cu Ba hòn đảo của tự do – hòn đảo anh hùng. Vậy hòn đảo anh hùng này đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Cu Ba đạt được kết quả gì ? Chúng ta chuyển sang mục II “Cu Ba – Hòn đảo anh hùng ”. - Trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn tuân thủ trình tự cấu tạo của sách giáo khoa, song cần khai thác nhấn mạnh, giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Học sinh trả lời được câu hỏi này tức là đã nắm và hiểu được kiến thức chủ yếu của bài. * Đối với học sinh: Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập muốn trả lời phải huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài và trả lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà , chú ý, tập trung cao độ theo dõi bài giảng , chọn lọc sự kiện và trình bày trên lớp. 2. Xác định mối liên hệ , xâu chuỗi giữa câu hỏi với các sự kiện , hiện tượng trong bài học. - Một trong những biện pháp sư phạm là xác lập mối liên hệ giữa câu hỏi các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài. Ví dụ : Khi củng cố kiến thức Bài 30: Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1973-1975 (tiết 2) Lịch sử 9 giáo viên có thể tạo ô chữ như sau: ễ chữ gồm 8 ụ chữ hàng ngang và 9 chữ cỏi trong từ chỡa khúa. 1 2 11
  12. 3 4 5 6 7 8 * Hàng ngang: 1/ Khi quõn giải phúng tiến vào trung tõm Sài Gũn, đó chia làm mấy cỏnh quõn ? 2/ Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam (Điền từ cũn thiếu vào chỗ ) ? 3/ 10 giờ 45 phút ngày 30/4/1975, quân ta tiến thẳng vào nơi này ? 4/ Là tổng thống cuối cựng của chớnh quyền Sài Gũn. Trưa ngày 30/4/1975 đó tuyờn bố đầu hàng quân giải phóng ? 5/ Là đầu mối trung chuyển sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, nằm trên trục đường Trường Sơn. Nơi 10 cô gái TNXP đó hi sinh ? 6/ Loại phương tiện đó tiến thẳng vào Dinh Độc lập trưa ngày 30/4/1975 ? 7/ Ông là Tư lệnh của chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam ? 8/ Đây là một trong những phũng tuyến ngoài của địch nhằm bảo vệ Sài Gũn đó bị quõn ta chọc thủng ngày 21/4/1975 ? * Từ chỡa khúa: gồm 9 chữ cỏi: * Gợi ý: 1, Đây là một trong ba chiến dịch lớn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân năm 1975 đó giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước )? 2, Chiến dịch giải phúng Sài Gũn cũn cú tờn là chiến dịch gì khác? * Đáp án các ô chữ hàng ngang: 12
  13. 1 N Ă M C Á N H Q U Â N 2 B Ộ C H Í N H T R Ị 3 D I N H Đ Ộ C L Ậ P 4 D Ư Ơ N G V Ă N M I N H 5 N G Ã B A Đ Ồ N G L Ộ C 6 X E T Ă N G 7 V Ă N T I Ế N D Ũ N G 8 X U Â N L Ộ C * Lưu ý: Những chữ cái in đậm ở các ô chữ hàng ngang chính là các dấu hiệu để tỡm ra từ chỡa khúa. Từ chỡa khúa gồm 9 chữ cỏi: H C H N I H I Ồ M * Đáp án từ chỡa khúa: H Ồ C H Í M I N H Qua trũ chơi này không những tạo không khí thoải mái, môi trường thân thiện giữa thầy và trũ. Mà nú cũn phỏt triển kĩ năng làm việc nhóm của học sinh đồng thời cũn phỏt huy được khả năng tư duy sáng tạo suy luận lôgic dựa trên những kiến thức mà các em vừa mới khám phá. Những kiến thức này được sắp xếp trình diễn trên màn hình, (viết lên bảng phụ hoặc trên khổ giấy to ) để các em có thể quan sát được câu hỏi và hệ thống kiến thức, học sinh tự tìm ra câu trả lời, tìm ra mối liên giữa chúng. Trong học sinh sẽ có cuộc tranh luận đâu là từ chìa khoá của ô chữ và học sinh rẽ phát hiện ra chìa khoá là “Hồ Chí Minh”. Cách lập bảng như vậy hợp với 13
  14. cách sử dụng câu hỏi sẽ có hiệu quả không chỉ về nắm kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục , rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy cho học sinh và giúp các em tránh nhàm chán trong các tiết học. - Việc xây dựng bảng các sự kiện qua các câu hỏi trò chơi và mối liên hệ giữa chúng là một trong những biện pháp giúp học sinh nhớ ngay sự kiện cơ bản ở trên lớp, đồng thời kích thích tính tích cực học tập của các em. 3. Xây dựng hệ thống câu hỏi ở trên lớp: - Trong quá trình giảng dạy ở trên lớp, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất nhận thức kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong qúa trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích tư duy phát triển. Đồng thời tạo ra mối liên hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh với giáo viên. Tức là mỗi câu hỏi đưa ra, mỗi học sinh và cả giáo viên phải thấy rõ vì sao trả lời được ? Vì sao không trả lời được ? Câu hỏi quá khó hay chưa đủ sự kiện, tư liệu để các em trả lời . - Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi , những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách , đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi sọan giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào ? Học sinh sẽ trả lời như thế nào ? Đáp án ra sao? rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Những câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh yếu kém tích cực hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em qua hệ thống câu hỏi , từ đó các em có hứng thú học tập và xây dựng bài hơn. - Thông thường trong quá trình giảng dạy chúng ta thường đặt ra nhiều loại câu hỏi, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử, chúng ta có các loại câu hỏi. Cụ thể: 14
  15. *. Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta thường hỏi về nguyên nhân , bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng lịch sử và thường áp dụng cho đối tượng học sinh yếu kém. Ví dụ:  Nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì. (Bài 21 SGK Lịch sử 9 trang 82 -83).  Nguyên nhân bùng nổ chiến tranh thế giới lần thứ hai (Bài 21 Lịch sử 8 trang 104). Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng. Bởi vì bất kì một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đều xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc điểm tư duy của lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh . * Loại câu hỏi về quá trình, diễn biến, phát triển của sự kiện hiện tượng lịch sử như diễn biến của các cuộc khởi nghĩa , diễn biến các cuộc cách mạng. Ví dụ : Hãy trình bày diễn biến chiến dịch Biên giới thu đông 1950 (Bài 26 Sách Lịch sử 9 trang 110) . Trình bày quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Pháp (Bài 16 lịch sử lớp 9 trang 61). Tuy đây là câu hỏi ít suy luận song lại đòi hỏi trí nhớ, phải biết nhiều sự kiện địa danh, nhân vật để giúp học sinh phát triển trí nhớ nên cần phải chia câu hỏi thành nhiều câu hỏi nhỏ, đồng thời lập các bảng niên biểu, mối liên hệ giữa các sự kiện. * Loại câu hỏi nêu lên đặc trưng bản chất của các hiện tượng lịch sử, bao gồm sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy 15
  16. .Loại câu hỏi này thường dùng cho học sinh khá giỏi khi thảo luận để bổ trợ kiến thức cho các đối tượng yếu kém. Ví dụ :  Tại sao nói, ngay sau khi ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở vào tình thế “ Ngàn cân treo sợi tóc”? ( Bài 24 SGK LSử 9 trang 96 ).  Tại sao Nguyễn Tất Thành lại ra đi tìm đường cứu nước? Hướng đi của Người có gì mới so với các nhà yêu nước chống Pháp trước đó? ( Bài 30 SGK Lịch Sử 8 trang 148).  Tại sao nói từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược (bài 25 lịch sử lớp 8 trang 124). Thường thì những câu hỏi này khó đối với học sinh, nó đòi hỏi các em phải biết phân tích, đánh giá, biết bày tỏ thái độ của mình đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Học sinh rất ngại trả lời những câu hỏi này, tuy nhiên giáo viên cần kiên trì đưa thêm những câu hỏi gợi mở giúp các em trả lời câu hỏi của mình. Ví dụ :  Khi dạy bài 23 – Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng 8 năm 1945 Câu hỏi nhận thức: Tại sao khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc? Câu hỏi gợi mở: Chủ trương khởi nghĩa vũ trang đề ra trong hội nghị TW lần thứ VIII ( tháng 5- 1941) là gì? Các yếu tố nào ( về thời cơ cách mạng ) đã xuất hiện đầy đủ ở nước ta lúc bấy giờ chưa? * Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa lịch sử của sự kiện với dạng câu hỏi này cũng dùng cho đối tượng hoc sinh yếu kém để các em tự phát hiện và chiếm lĩnh được kiến thức cơ bản và giúp các em hoạt động liên tục trong quá trình học tập. 16
  17. - Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục ,đan xen nhau giữa các sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần cho học sinh thấy rõ được kết quả của sự vận động đó, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển lịch sử. Ví dụ :  Em hãy nêu ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3.2 1930 (Lịch sử 9 trang71).  Trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của cách mạng tháng Tám năm 1945.(lịch sử 9 trang 94).  4.Trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng tư sản Pháp 1789 -1794 (lịch sử 8 trang 17). - Để trả lời những câu hỏi này, học sinh dựa vào SGK để trả lời bằng ngôn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo khoa . * Loại câu hỏi đối chiếu , so sánh giữa sự kiện , hiện tượng lịch sử này với sự kiện, hiện tượng lịch sử khác mà các em đã học . Đây là loại câu hỏi khá khó đối với học sinh trung học cơ sở ( Ưu điểm của loại câu hỏi này là vừa giúp cho học sinh củng cố ôn tập lại kiến thức cũ vừa tiếp nhận kiến thức mới và áp dụng khi hoạt động thảo luận nhóm để các em bổ trợ kiến thức cho nhau và cùng nhau giải quyết vấn đề. Ví dụ:  Khi học bài 29 “ Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (1965 – 1973)” ( Lịch sử 9 trang 142) Có câu hỏi : Chiến lược “ Chiến tranh cục bộ” và “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở Miền Nam có điểm gì giống nhau và khác nhau?  Khi dạy bài 9 Nhật Bản ( Lịch sử 9 trang36) có câu hỏi so sánh sự giống nhau và khác nhau trong chính sách đối ngoại của Mĩ và Nhật Bản sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 . 17
  18.  So sánh hoàn cảnh, nội dung, tác dụng của chính sách cộng sản thời chiến với chính sách kinh tế mới của Lê Nin và Đảng Bôn sê vích.(lịch sử 8 trang 82). Tóm lại : Các loại câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh, giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân , diễn biến, kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Những câu hỏi đó giáo viên vận dụng nhuần nhuyễn trong các tiết dạy không chỉ cho các em biết được các sự kiện mà đi sâu hiểu bản chất của sự kiện, nó không chỉ đòi hỏi học sinh nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử . 4. Vận dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính tích cực của học sinh vào một mục cụ thể :  Thiết kế câu hỏi gợi mở để giải quyết câu hỏi nhận thức * Ví dụ: Khi dạy mục VI: Hiệp định Sơ bộ (6 –3 – 1946 )và Tạm ước Việt –Pháp (14 -9 -1946) – Bài 24 “ Cuộc đấu tranh và bảo vệ xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân (1945- 1946) – Lịch sử lớp 9. tiết 2). Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu sự bắt tay hòa hoãn giữa Tưởng và Pháp qua Hiệp ước Hoa – Pháp (28-2-1946), theo hiệp ước này Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Ngược lại, Pháp đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp khí giới quân Nhật. Điều này vi phạm trắng trợn chủ quyền của dân tộc ta, coi Việt Nam là món hàng để trao đổi. Trước tình hình đó, Đảng ta có chủ trương, sách lược gì để đối phó? Giáo viên đưa ra câu hỏi nhận thức: 18
  19. CÂU HỎI NHẬN DỰ KIẾN TRẢ LỜI CÂU HỎI GỢI MỞ THỨC 1. Việc Pháp và Tưởng kí hiệp Vì Pháp và Tưởng định chính trị Vì sao Đảng, Chính kí thoả hiệp chính 28.2. 1946 đặt ra phủ ta và Hồ Chủ trị ( 28. 2. 1946) cho đảng ta lựa Tịch lại kí với thực Việc làm này buộc chọn 1 trong 2 dân Pháp Hiệp định Đảng ta phải lựa con đường nào? sơ bộ 6 . 3 . 1946 . chọn 1 trong 2 con 2. Đảng ta đã lựa đường hành động. chọn con đường nào ? Vì sao? Một là: Đánh Hai là : Hoà với Đảng ta đã lựa Pháp trước khi Pháp mượn tay chọn con đường pháp đưa quân ra Pháp đuổiTưởng thứ 2 vì đất nước miền Bắc . Như về nước , loại bớt ta lúc này vô cùng vậy cùng một lúc một kẻ thù nguy khó khăn không phải đánh cả hiểm, kéo dài thời thể một lúc đánh Pháp lẫn Tưởng. gian hoà bình để nhau với nhiều kẻ chuẩn bị lực thù , hơn nữa lúc lượng về mọi mặt này Pháp đưa chống Pháp sau quân ra miền Bắc này. với danh nghĩa chính thống. 15
  20. III. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI (SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM) Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan. Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt học sinh sẽ yêu thích môn học này hơn. * Kết quả học tập của học sinh cuối năm học 2011- 2012 như sau: ( Kết quả sau khi áp dụng đề tài) + Kết quả bài kiểm tra học kỳ II Giỏi Khá Tb Yếu-Kém Lớp SLHS SL % SL % SL % SL % 9A 37 15 40,5 17 46,0 5 13,5 0 9B 38 12 31,6 16 42,1 10 26,3 0 9C 34 14 41,2 14 41,2 6 17,6 0 8A 37 12 32,4 13 35,2 10 27,0 2 5,4 8B 37 8 21,6 13 35,2 15 40,5 1 2,7 8C 34 9 26,5 11 32,4 13 38,2 1 2,9 20
  21. + Kết quả điểm trung bình môn học Giỏi Khá Tb Yếu-Kém Lớp SLHS SL % SL % SL % SL % 9A 37 14 37,8 17 45,9 6 16,3 0 9B 38 9 23,7 15 39,5 14 36,8 0 9C 34 11 32,4 14 41,2 9 26,4 0 8A 37 9 24,4 14 37,8 12 32,4 2 5,4 8B 37 8 21,6 13 35,2 15 40,5 1 2,7 8C 34 8 23,5 12 35,4 13 38,2 1 2,9 So sỏnh kết quả học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng đề tài này hoàn toàn khác nhau. Nhỡn vào bảng kết quả khi ỏp dụng đề tài, ta thấy tỉ lệ khá giỏi tăng lên, đặc biệt số học sinh yếu- kộm giảm rừ rệt Với mong muốn sỏng tạo ra phương pháp dạy học để tạo sự hứng thú cho các em trong quá trỡnh học, đồng thời qua đó sẽ giúp học sinh nhớ và hiểu được các đơn vị kiến thức lịch sử. Từ mong muốn đó, tôi thường xuyên áp dụng việc sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học Lịch sử. Phương pháp này đó gúp phần tạo được sự thoải mái, không gũ ộp Vỡ vậy đó gõy được hứng thú học tập cho các em; giờ học trở nên sôi nổi hơn, các đối tượng học sinh khác nhau cũng chủ động và hăng say học, tỡm hiểu kiến thức lịch sử hơn. Vỡ thế, chất lượng học của các em thể hiện qua các bài kiểm tra và đặc biệt qua xếp loại từng học kỡ mức độ đi lên của từng học sinh có một bước tiến rừ rệt. Qua quá trình thực hiện, kết quả đáng mừng là số học sinh có hứng thú học tập bộ môn tăng, chất lượng học tập bộ môn tăng. Nhiều em đã tích cực tham gia ôn tập và dự thi HSG môn sử cấp trường, huyện đạt kết quả cao ( Năm học 2011-2012 có: 02 học 21
  22. sinh giỏi cấp huyện trong đó có 01 giải nhì và 01 học sinh đạt giải ba cấp thành phố) IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM : Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:  Trong mỗi tiết dạy giáo viên nêu mục tiêu yêu cầu của tiết, mục của bài học sau đó cung cấp thông tin và phân bổ thời gian hợp lí lí để học sinh tiếp nhận thông tin.  Giáo viên đặt và sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy, tuỳ theo khối lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng.  Khi nêu câu hỏi giáo viên cố gắng sử dụng các câu hỏi ngắn gọn, đủ ý, đơn giản, dễ hiểu ,gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh. Không nên sử dụng câu hỏi “Có” hay “Không”, “Đúng” hay “Sai” mà phải sử dụng câu hỏi phát huy tính độc lập tư duy ở các em ( tránh tình trạng học sinh trả lời một cách công thức hoặc chung chung )  Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi gợi mở ( chuẩn bị kĩ ở giáo án) để giải quyết câu hỏi đặt ra đầu giờ  Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để xây dựng các câu hỏi trong các tiết dạy và vận dụng linh hoạt hơn để giải quyết nhiệm vụ nhận thức ở mỗi bài học.  Giáo viên cần kết hợp các phương tiện dạy học khác như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy  Trong quá trình giảng dạy , ngôn ngữ phải truyền cảm , không quá nhanh hoặc quá chậm, phải lôi cuốn , hấp dẫn , trình bày phải có điểm nhấn, tránh đều đều . 22
  23.  Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thoả mãn, đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình, mà phải là cho các em hiểu rằng, sự trả lời đúng, đầy đủ câu hỏi do giáo viên nêu ra là tốt, song vẫn phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu sắc hơn và thông minh hơn.  Cần tạo cơ hội cho học sinh trong cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, không làm nặng nề giờ học, trình bày nhồi nhét song vẫn tạo không khí thoải mái , nhẹ nhàng để đạt kết quả tối đa.  Giáo viên dạy môn lịch sử phải luôn luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy.  Người giáo viên Lịch sử cần tự bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ khoa học và chính xác. Sử dụng triệt để các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú ý của học sinh. Nên có những buổi học ngoại khoá, tham quan du lịch các di tích bảo tàng lich sử. C. PHẦN KẾT LUẬN. 23
  24. I. NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Tóm lại “Phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ” được vận dụng trong các tiết dạy sẽ đạt được kết quả học tập cao nhất của học sinh về tất cả các mặt giáo dưỡng , giáo dục và phát triển. Đây là hoạt động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm giúp cho học sinh độc lập lĩnh hội kiến thức một cách thông minh, vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế (học tập và cuộc sống ) . Điều này quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức, lao động sáng tạo, ý thức tinh thần trách nhiệm cao của mỗi một giáo viên. Và cần đòi hỏi phát triển năng lực tư duy và hành động của mình trước khi giáo dục cho học sinh, cho nên phải nắm vững lý luận, rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên. Nhưng vì thời gian có hạn, cùng với kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nên tôi chỉ mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong việc sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử 8 và 9 góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Với sáng kiến kinh nghiệm này , tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh trường THCS Sơn Đà nói riêng, các đồng nghiệp và học sinh các trường bạn nói chung thực hiện phương pháp sử dụng những câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh đạt hiệu quả cao hơn. Về phía bản thân, tôi xin hứa sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm trên, đồng thời không ngừng rút kinh nghiệm, khắc phục khó khăn để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ - Thực ra hiện nay trong các nhà trường đã được cấp rất nhiều các thiết bị dạy học.Tuy vậy đối với môn lịch sử thì các đồ dùng thiết bị còn quá ít, vì vậy muốn đạt được kết quả cao trong bộ môn này theo tôi cần có những yêu cầu sau: 24
  25.  Các cơ quan thiết bị trường học cần có đầy đủ tranh ảnh về các di tích lịch sử và di sản văn hoá hoặc chân dung của các nhân vật lịch sử có công với cách mạng .Nhà trường cần mua một số tư liệu, tài liệu có liên quan đến lịch sử và phương pháp giảng dạy bộ môn lịch sử.  Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các môn trong đó có bộ môn Lịch sử. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của cá nhân tôi trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử . Bản sáng kiến này do tôi tự làm, có gì sai tôi xin chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, do bản thân kinh nghiệm chưa nhiều nên có thể còn có những điểm chưa sâu, chưa toàn diện và chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tụi rất mong nhận được ý kiến gúp ý xõy dựng của ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn và các bạn đồng nghiệp để những kinh nghiệm này ngày càng thêm đầy đủ và hoàn thiện hơn! Cuối cùng xin chân thành cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh trường THCS Sơn Đà đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Chân thành cảm ơn quý thầy cô cùng bạn đọc đã bớt chút thời gian quý báu để đến với đề tài và xin được tiếp thu ý kiến góp ý của các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Sơn đà, ngày 18 tháng 5 năm 2012 Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung 25
  26. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương pháp dạy học Lịch sử Tác giả: Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị ( chủ biên) Nhà xuất bản Giáo dục,năm 2004. 2.Tài liệu Lí luận về “Phương pháp dạy học tích cực” Tác giả: Dự án VVOB của Bộ Giáo dục & Đào tạo. 3.Tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Lịch sử (Bậc THCS) Tác giả: Phan Ngọc Liên – Nguyễn Xuân Trường (Đồng chủ biên) Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm 2009. ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG. 26
  27. ngày tháng năm 2012 Chủ tịch hội đồng ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH NGÀNH GD&ĐT BA VÌ. ngày tháng năm 2012 Chủ tịch hội đồng 27