SKKN Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp Mầm non

doc 26 trang Đăng Bình 04/12/2023 1850
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giup_tre_25_36_thang_nang_cao_ky_nang.doc

Nội dung text: SKKN Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp Mầm non

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non” tại Trường Mầm non Phường 3, TP Vũng Tàu Người viết: Nguyễn Thị Hoài Thương 1. Cơ sở đề xuất giải pháp 1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những năm tháng đầu đời là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của đất nước. Trẻ em sinh ra có quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Giáo dục mầm non là ngành học đầu tiên chiếm vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là phát triển toàn diện cho trẻ và Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống. Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Một trong những nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập là rất quan trong đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu vào lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi trong trường mầm non là vô cùng cần thiết. Giáo dục kỹ năng sống cho lứa tuổi mầm non là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo viên và các bậc phụ huynh. Vì ngoài gia đình ra, khi bắt đầu tiếp xúc với môi trường mới như: nhà trường, xã hội sẽ kéo theo những mối quan hệ khác nhau từ thầy cô, bạn bè Lúc này trẻ sẽ bắt đầu học những kỹ năng thích nghi, giao tiếp, ứng xử Kỹ năng thích nghi là một kỹ năng sống quan trọng vì đó là khả năng để trẻ có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Nhất là với trẻ nhà trẻ, từ ở môi trường gia đình, mình là trung tâm, có ông bà, cha mẹ phải đến trường mới, lớp nhà trẻ, có cô, các bạn Đứa trẻ phải có kĩ năng thích nghi để hòa nhập với môi trường mới Nếu đứa trẻ nếu có kỹ năng thích nghi sớm, trẻ 1
  2. sẽ giao tiếp tốt có thể dễ dàng hòa nhập với những người xung quanh, đi vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày ở lớp học, trẻ thích đi học, không sợ người lạ, không quấy khóc Nhưng nếu trẻ thiếu kỹ năng thích nghi thì trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với trẻ, các bạn, thì cũng khó mà đạt được những kết quả tốt. Vì vậy, việc hình thành và phát triển kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng là rất cần thiết. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non” 1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp Việc giúp trẻ thích nghi với môi trường lớp mầm non ở mỗi trường đều có. Trong những năm qua đã có đề tài sáng kiến nghiên cứu về “Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non (2012-2013) của tác giả Nguyễn Thị Chung, đề tài sáng kiến nghiên cứu về “Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non (2012-2013) của tác giả Nguyễn Thị Thúy. Nhìn chung sáng kiến đã đề cập tới nhiều góc độ khác nhau, có biện pháp rất hay, tuy nhiên chưa có sáng kiến nào đi sâu tới việc giúp trẻ 25- 36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non” là rất cần thiết để giúp các cháu dễ dàng hòa nhập, thích nghi với môi trường lớp học, các cháu đi vào nề nếp nhanh hơn, hứng thú tham gia mọi hoạt động trong ngày ở lớp học, trẻ thích được đi học nhằm góp phần cao chất lượng chăm sóc giáo dục cho trẻ 25-36 tháng trong nhà trường. 1.3. Mục tiêu của giải pháp Giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, phát huy tính tích cực trong các hoạt động, qua đó đề xuất “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non”. 1.4. Căn cứ đề xuất giải pháp 1.4.1. Cơ sở pháp lý Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả và giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày. 2
  3. Cha mẹ nào cũng mong con mình khỏe mạnh, thông minh và cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển. Tuy nhiên bên cạnh việc chăm sóc để trẻ phát triển thể chất, giáo dục trẻ học hành giỏi giang, nhiệm vụ giúp trẻ định hướng, xây dựng và phát triển các kỹ năng sống cơ bản là không thể thiếu được. Chúng ta đã được chứng kiến rất nhiều học sinh thông minh, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi nhưng vì thiếu và yếu các kỹ năng sống, kỹ năng làm việc nên gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và quá trình xin việc, đi làm. Chính vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là hết sức cần thiết. 1.4.2. Cơ sở thực tiễn Trong 3 năm lại đây, tôi được phân công trực tiếp đứng lớp nhà trẻ, cứ vào đầu năm nhận các cháu 25-36 tháng vào lớp là nghe tiếng khóc của các cháu. Có một số cháu dễ thích nghi, ít khóc, một số cháu thì khóc cả ngày, có vài cháu khóc cả tháng trời làm các cô và phụ huynh rất lo lắng. Phụ huynh thì so sánh lớp này với lớp kia, sao bé này khóc, bé kia không khóc, quan tâm tới việc con mình có chơi với bạn không, có chịu tham gia vào hoạt động trong lớp không Mỗi năm các cháu khác nhau và cách làm quen cũng khác nhau, nên vào đầu năm khi nhận cháu mới luôn là niền băn khoăn đối với tôi, làm sao để các cháu không khóc, các cháu ngoan, chịu tham gia các hoạt động, cháu phát triển tốt. Chính vì vậy việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 25-36 tháng là điều cần thiết. Qua một thời gian nghiên cứu và thực tế giảng dạy ở trường tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 25-36 tháng. Tôi trình bày ra đây để chị em cùng tham khảo và đóng góp ý kiến 1.5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra trong việc nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng đan xen các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ - Phương pháp đàm thoại: Khai thác những hiểu biết, những kinh nghiệm của của giáo viên và phụ huynh. - Phương pháp thực hành, trải nghiệm: Tổ chức cho trẻ những hoạt động vui chơi, học tập trong và ngoài lớp - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo các tài liệu có liên quan đến công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tham gia tập huấn các lớp bồi 3
  4. dưỡng hè, tham gia dự chuyên đề, hội giảng các cấp, dự giờ thăm lớp, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. 1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng: Học sinh, giáo viên lớp 24-36 tháng 1 Trường Mầm non phường 3. 2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp 2.1. Quá trình hình thành giải pháp a) Thuận lợi: Trường được sự quan tâm chỉ đạo của các ngành các cấp, ban giám hiệu luôn quan tâm đồng hành, tích cực về việc rèn kỹ năng sống cho trẻ Trường Mầm non phường 3 đóng trên địa bàn trung tâm của thành phố, mặt bằng dân trí của phụ huynh cao, điều này là một thuận lợi khi trẻ được tham gia nhiều các hoạt động thực tế, được trải nghiệm nhiều điều. Các bậc phụ huynh nhiệt tình, luôn quan tâm hỗ trợ cơ sở vật chất lẫn tinh thần trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi. Bản thân có trình độ trên chuẩn, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công việc. Trẻ đến lớp tương đối ngoan, nhanh nhẹn, khỏe mạnh. b) Khó khăn và hạn chế: Phòng học nhỏ, chưa đáp ứng được số trẻ ra lớp không đảm bảo đủ diện tích trong lớp do đó gây khó khăn trong việc xây dựng môi trường lớp học xanh, sạch đẹp, cũng như việc bố trí sắp xếp các góc chơi trong lớp một cách khoa học để giúp trẻ dễ dàng thích nghi với môi trường lớp học. Một số giáo viên mới, chưa linh hoạt, sáng tạo trong công việc. Một số trẻ mới đi học còn nhút nhát, sợ người lạ, chưa tự tin, không dám tham gia hoạt động. Một số trẻ khóc nhiều, chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia hoạt động với bạn. Trẻ được cha mẹ chiều chuộng, bao bọc nhiều, chưa biết cách rèn cho con có những kỹ năng thích nghi và kỹ năng tự phục vụ bản thân. 2.2. Nội dung giải pháp Giải pháp 1: Học tập nâng cao nhận thức về giáo dục kỹ năng thích nghi cho trẻ 4
  5. Giúp các giáo viên nâng cao nhận thức, hiểu biết, nắm rõ về việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng Để thực hiện tốt được giải pháp này, ngay đầu năm tôi cùng các thành viên trong tổ cùng thảo luận, nghiên cứu xây dựng kế hoạch rõ ràng theo từng chủ đề. Để từ đó có sự chuẩn bị cho lớp học về hình ảnh, đồ dùng, nguyên vật liệu trang trí cho từng mảng tường trong và ngoài lớp học, về cách bố trí, sắp sếp các góc chơi sao cho hợp lý với kỹ năng hoạt động của trẻ. Bản thân tôi luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên và “Quy chế nuôi dạy trẻ” đề ra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. Luôn tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, nhà trường tổ chức. Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ, đưa trẻ vào nề nếp, có những hành vi văn minh, tự phục vụ từ những thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tham quan các lớp, các trường bạn, giáo viên khác để học hỏi thêm kinh nghiệm về việc hình thành kỹ năng thích nghi cho trẻ. Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ gắn với thực tiễn, có tài liệu đồ dùng trực quan sinh động phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học. Tôi luôn tạo cho trẻ tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ. Trong giờ học tôi luôn tạo cơ hội, động viên cho trẻ được nói, được trình bày ý kiến của trẻ trước cô, trước tập thể, nhất là trẻ còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em. Đặc biệt tôi luôn là tấm gương sáng về hành vi ứng xử, về đạo đức, những hành vi văn minh, bảo vệ môi trường cho trẻ noi theo. Qua thời gian thực hiện, bản thân tôi và các giáo viên trong tổ đã nắm bắt được việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng tốt hơn. Giải pháp 2: Trang trí trong và ngoài lớp học, tạo sự thân thiện, gần gũi đối với trẻ Giúp các giáo viên tạo môi trường trong và ngoài lớp học sạch sẽ, thân thiện gần gũi với trẻ nhằm nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ ở độ tuổi 25-36 tháng. 5
  6. + Môi trường bên trong lớp học: Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, khi đến một môi trường mới gặp cô là người lạ, phải xa ba mẹ trẻ sợ hãi và khóc. Vì vậy tôi đã trang trí lớp các mảng tường bằng những hình ảnh có màu sắc nổi bật, tôi sử dụng những nguyên vật liệu khác nhau để trang trí các mảng tường, các góc trong lớp, tạo các mảng tường, các góc trong lớp để kích thích tính tích cực của trẻ. Tất cả những mảng tranh trí tôi bố trí, sắp xếp để ở các vị trí hợp lý cho trẻ dễ thấy, dễ hoạt động với các mảng tường đó. Với màu sắc trang trí hài hòa, đơn giản mà lại lôi cuốn trẻ làm trẻ tập trung vào đó, quên đi nỗi sợ hãi tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, thân thiện như ở gia đình mình. Tôi trang trí mảng một ngày của bé bằng những hình ảnh, những hoạt động thiết thực ở trường mầm non. Đó cũng là cách tuyên truyền tốt nhất cho phụ huynh của trẻ biết được các hoạt động của con mình ở trường Mầm non. Để lôi cuốn thu hút trẻ hoạt động tôi tự mình lựa chọn gam màu phù hợp, cách trang trí khoa học bằng những hình ảnh gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Tôi khuyến khích trẻ cùng cô dán trang trí mảng chủ đề, giúp trẻ cảm thấy thoải mái, tự tin về những sản phẩm của mình làm ra, từ đó tạo cho trẻ sự phấn khởi, tích cực hoạt động ở trẻ, trẻ thích được đi học, và tạo cho trẻ những mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với trẻ, giúp trẻ ngày càng thêm gắn bó, gần gũi, đoàn kết với các bạn trong lớp. Hình ảnh góc chủ đề cô và trẻ cùng làm bằng các nguyên vật liệu khác nhau 6
  7. Các góc chơi tôi bố trí, sắp xếp phù hợp, linh hoạt để trẻ dễ lấy, dễ quan sát. Tôi đặt tên các góc đơn giản, dễ hiểu, gần gũi với trẻ và thay đổi nội dung phù hợp với từng chủ đề. Các góc có khoảng rộng cách nhau hợp lý để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho trẻ và vận động của trẻ, không che tầm nhìn của trẻ và không cản việc quan sát của giáo viên. Hình ảnh góc thư viện cho trẻ Các đồ dùng, đồ chơi trong lớp phải đảm bảo an toàn cho trẻ, được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp không xa cách, được sắp đặt vừa tầm với trẻ để trẻ tự lấy, tự cất, tự hoạt động tạo cho trẻ một tâm thế vui vẻ và hứng thú tham gia các hoạt động trong lớp. 7
  8. Hình ảnh đồ chơi góc xây dựng được sắp xếp gọn gàng Sự thân thiện, gần gũi với môi trường trong lớp là bước đầu tiên giúp trẻ nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học. Nếu bước vào một lớp học rất đẹp nhưng trẻ không thấy được sự gần gũi, không dám sờ vào bất kỳ thứ gì, hoặc không được xê dịch mọi thứ thì không thể tạo được môi trường tích cực và thân thiện với trẻ. Vì vậy việc trang trí, sắp xếp các góc làm sao cho trẻ dễ dàng hoạt động cũng là một yếu tố tạo sự gần gũi thân thiện đối với trẻ. + Môi trường bên ngoài lớp học Tôi tận dụng sân trường thoáng mát, sạch sẽ, cây xanh, hoa, những đồ chơi ngoài sân trường để gây hứng thú cho trẻ. Đầu năm cháu khóc nhiều, hay chạy ra khỏi lớp nên trong lớp phải đóng cửa rào làm không khí ngột ngạt, gò bó. Chính vì vậy việc cho cháu xuống sân trường chơi là một điều cần thiết để rèn kỹ năng thích nghi cho trẻ. Cho cháu đi dạo chơi, hít thở không khí trong lành trong sân trường giúp trẻ thoải mái, vui vẻ, các cháu thích thú xuống sân chơi, chơi cùng các bạn với các trò chơi vận động, dân gian, chơi đồ chơi dưới sân, chơi với cát nước , tham quan các lớp học khác để tạo cho trẻ môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo và bạn bè. Còn một số cháu vẫn còn khóc thì tôi luôn dỗ dành, động viên, khuyến khích trẻ tham gia các trò chơi cùng cô, cùng bạn. 8
  9. Hì Hình ảnh cháu chơi dưới sân trường Ngoài ra tôi còn tận dụng góc thiên nhiên của lớp, tạo cho trẻ góc thiên nhiên có nhiều cây xanh, có vườn rau được bố trí phù hợp, sạch sẽ để trẻ được quan sát, khám phá, chỉ cho trẻ biết chăm sóc vườn cây của lớp mình. Tôi hướng dẫn trẻ tưới cây, cách chăm sóc cây, không hái hoa, bẻ cành, bỏ rác đúng nơi quy định để gây hứng thú, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ. Hình ảnh góc thiên nhiên của bé. Hình ảnh các cháu căm sóc Vườn rau của lớp Trong thực tế lớp tôi do nguồn kinh phí của lớp còn hạn hẹp không đủ để mua các chậu hoa, cây cảnh cho góc thiên nhiên, góc rau xanh của lớp. Do đó 9
  10. tôi đã vận động các bậc phụ huynh ủng hộ với nhiều loại cây cảnh khác nhau, các loại hạt giống một số loại rau dễ trồng, gần gũi với trẻ, các thùng xốp sau đó tôi lựa chọn các loại cây đẹp, có màu sắc nổi bật, không có gai, không có độc tố gây thương tích cho trẻ, đảm bảo an toàn cho trẻ khi tiếp xúc với các loại cây đó, trẻ hứng thú tìm tòi, khám phá phát hiện ra những điều mới lạ, trẻ sẽ thích thú đi học, hết khóc và tích cực tham gia vào các hoạt động. Nhờ biết cách trang trí trong và ngoài lớp học, các mảng tường sinh động, nhiều màu sắc, lựa chọn đồ chơi phù hợp với trẻ, gây ứng thú cho trẻ mà mỗi ngày đến lớp với trẻ là một ngày vui, trẻ có hứng thú, trẻ ngắm nhìn, thích chơi với các hình ảnh, đồ chơi trong và ngoài lớp học, dần dần trẻ sẽ hết khóc, nhanh chóng thích nghi, hòa nhập với cô và các bạn, hứng thú tham gia các hoạt động của lớp. Giải pháp 3: Nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ trong các hoạt động Bồi dưỡng cho trẻ những kỹ năng sống, những thói quen tốt không phải là việc một sớm một chiều mà là cả một quá trình và phải chọn đúng thời điểm thích hợp với độ tuổi của trẻ để bắt đầu mới có kết quả tốt nhất. Với trẻ mầm non, giáo dục kỹ năng sống không thể tách riêng thành một môn học riêng biệt, nó phải được tiến hành thông qua các hoạt động giáo dục khác trong ngày, ở mọi lúc mọi nơi. Người giáo viên cần tìm tòi đổi mới các hình thức tổ chức để mọi kiến thức giáo dục mình muốn truyền tải đến trẻ đều nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả. Vì vậy tôi luôn chú ý việc nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ trong các hoạt động. a) Hoạt động đón trẻ Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, trong tuần lễ được ở lại làm quen, tuần đầu làm cho bé sợ hãi và khóc. Lúc này cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của trẻ. Khi mẹ đưa bé đến lớp những ngày đầu tiên, bé thường ôm chặt lấy mẹ không muốn rời và nhìn xung quanh dò xét. Nếu lúc đó cô giáo đến ôm chầm và bế bé ra khỏi tay mẹ thì bé sẽ rất ghét và đâm ra sợ cô. Chính vì vậy, tôi tiến lại chào hỏi phụ huynh và mỉm cười, hỏi chuyện với bé, nói chuyện với mẹ bé. Sau đó tôi bày đồ chơi và tổ chức những trò chơi trong lớp để gây sự chú ý của trẻ đồng thời quan sát biểu hiện của trẻ. 10
  11. Trẻ hứng thú tham gia chơi đồ chơi Có những cháu thì tham gia ngay cùng cô, nhưng cũng có bé chỉ ngồi trong lòng mẹ quan sát cô và các bạn, khi cô đưa đồ chơi thì ngồi chơi cùng mẹ Đối với những trẻ này, tôi phải lại gần, trò chuyện với phụ huynh về trẻ và chơi với cháu nhiều hơn, dần dần trẻ sẽ cảm thấy cô gần gũi hơn, thân thiết hơn. Từ từ trẻ sẽ chơi với cô và theo cô. Khi trẻ bắt đầu bị tôi thu hút thì tôi sẽ làm quen, trò chuyện với trẻ trong vai trò “cô giáo”. Việc làm quen diễn ra một cách tự nhiên, dần dần các cháu không cảm thấy đột ngột, sợ hãi. Chính các cháu này sẽ là những nhân tố tích cực lôi kéo những cháu mới hưởng ứng theo cô sau này. Hình ảnh cô đón cháu vào lớp 11
  12. Ngoài việc trao đổi với phụ huynh về trẻ, tôi cũng đã trao đổi với các phụ huynh về nội quy của nhóm lớp như: cho bé đi học đều, đúng giờ để bé được tập thể dục sáng, đồng thời đề nghị phụ huynh kết hợp với cô trong việc đưa trẻ đi vào nề nếp và thói quen lễ phép cho trẻ. Cô và ba mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo. Ví dụ: - Khi bé mới vào lớp tôi đã khoanh tay chào ba mẹ, chào bé: phụ huynh cũng khoanh tay chào lại tôi, những hình ảnh này dễ làm cho các cháu bắt chước cử chỉ đẹp của người lớn và cháu sẽ làm theo Bên cạnh đó giáo viên cũng phải dung hòa tránh gò ép trẻ làm trẻ không hứng thú khi đến lớp. Cô thường xuyên khuyến khích, động viên để trẻ biết tự đi cất dép, tự lấy ly uống nước, lấy khăn lau mặt và cùng trẻ hướng dẫn bạn để thông qua việc này trẻ sẽ tiếp nhận được nhanh hơn, dễ dàng hơn. Cô cũng cần để ý đến những phụ huynh chưa hợp tác, chưa thoải mái việc rèn tính tự lập cho trẻ để trao đổi trong giờ đón, tránh phụ huynh thấy không hài lòng khi cô cho con tự phục vụ. Cô gợi mở những câu truyện, sử dụng tranh ảnh để trẻ hứng thú, mạnh dạn trò chuyện giao tiếp cùng cô và các bạn. Khi trò chuyện hoặc chơi cùng với trẻ, tôi thường xưng luôn tên tôi và trẻ thuộc tên tôi rất nhanh. Khi về đến nhà, trẻ luôn miệng nhắc tên cô, cô Thương rửa tay sạch cho con, cô Thương bảo để dép ở nơi này nè, không dược để tay bẩn ” Chính những điều này làm phụ huynh tin tưởng ở tôi nhiều hơn và các cháu cũng thân thiết với tôi hơn. 12
  13. Hình ảnh cháu đã thích nghi với môi trường ở lớp b) Trong hoạt động học: Trong thời gian đầu tùy theo cá tính của từng trẻ tôi luôn chiều trẻ để trẻ cảm thấy an tâm trong môi trường mới. Tôi có thể đáp ứng những thói quen không đẹp của trẻ như ngồi đưa chân lên ghế bạn khác đang ngồi, tiêu tiểu không gọi cô, bắt cô ẵm bồng Rồi từ từ sau đó, khi bé quen rồi tôi sẽ cho bé thực hiện các nề nếp trong học tâp: ngồi ngay ngắn, tự lấy và cất đồ dùng của mình, tích cực tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. Hình ảnh trẻ tham gia các hoạt động học 13
  14. Trong giờ học tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ được tham gia, tự lập từ các hoạt động chuẩn bị cùng cô: lấy rổ, tranh ảnh, đồ dùng, kê ghế rồi đến khi kết thúc hoạt động trẻ lại cùng cô cất dọn và trẻ biết cất lấy đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định. Thông qua các hoạt động học, phim và tranh ảnh trẻ được mở rộng kiến thức, ngoài ra còn cho trẻ tự trải nghiệm, thực hành để trẻ được khắc sâu hơn. c) Hoạt động vui chơi: Hoạt động vui chơi là lúc trẻ thích thú nhất, trẻ dễ dàng quên đi nỗi sợ hãi, khi phải đến trường, xa ba mẹ, vui chơi là nơi mà trẻ thể hiện cái tôi nhiều nhất, thể hiện vốn kỹ năng sống rõ nét nhất và cũng là môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất. Với trẻ ở lứa tuổi này, tôi luôn động viên, khuyến khích trẻ chơi và chơi cùng với trẻ, khơi gợi cho trẻ cách đóng vai và tạo cho trẻ các tình huống để trẻ có thể ứng biến và giải quyết vấn đề theo kinh nghiệm riêng của trẻ. Từ đó tôi sẽ nắm bắt, điều chỉnh và lên kế hoạch cụ thể và phù hợp hơn để nâng cao khả năng thích nghi cho trẻ, tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái khi Tập ch trẻ cất đồ dùng đồ đến trường, trẻ biết chơi cùng bạn cùng cô, biết nhường nhịn khi chơi và biết cất chơi sau khi chơi dọn đồ dùng đồ chơi gọn gàng sau khi chơi xong. Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục kĩ năng thích nghi cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải giao tiếp với nhau, phải suy nghĩ, nói ra ý tưởng, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. 14
  15. Hình ảnh trẻ chơi ở các góc Thông qua giờ chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có được trẻ thể hiện qua hoạt động vui chơi. Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ đã có. Giáo viên và trẻ cùng làm những đồ chơi tự tạo phục vụ cho các góc chơi. Các góc chơi phải trang trí hoặc có những đồ chơi đẹp gây hứng thú trẻ tích cực hoạt động. Trong các buổi dạo chơi, tôi cho trẻ quan sát và đàm thoại về những cây cối, những đồ chơi trong sân trường nhằm khơi gợi hứng thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ, đồng thời cung cấp kiến thức cho trẻ về đối tượng giúp trẻ thích được đến trường, thích chơi những đồ chơi dưới sân trường. Tôi tổ chức, động viên trẻ chơi và chơi cùng trẻ những trò chơi dân gian, trò chơi vận động, các trò chơi tự do ở dưới sân trường khiến trẻ thích thú khi chơi, trẻ sẽ hết khóc và tham gia vào giờ chơi cùng cô và các bạn, góp phần nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 15
  16. Hình ảnh cháu chơi ngoài trời d) Hoạt động lao động: Thông qua hoạt động lao động cô giáo có thể hướng trẻ vào những thái độ ứng xử văn hóa: yêu lao động, trân trọng sản phẩm lao động, .Trẻ được tự tay làm, tận mắt chứng kiến kết quả lao động của mình, không có gì có thể có ý nghĩa giáo dục với trẻ hơn như vậy. Mới đầu trẻ đi học còn khóc nhiều, chưa chịu làm, lấy đồ dùng của mình. Tôi khuyến khích, động viên trẻ tự lấy đồ dùng của bản thân, khen ngợi khi trẻ tự lấy đồ dùng của mình dần dần hình thành thói quenn tự phục vụ cho trẻ. Khi cho trẻ xuống sân trường, tôi cho trẻ quan sát sân trường có nhiều rác không. Tôi hỏi trẻ có biết vì sao lại như vậy không? Làm thế nào để sân trường mình sạch đẹp bây giờ. Cô cùng trẻ nhặt rác trong sân trường, trẻ thấy thành quả lao động của mình, sân trường được sạch sẽ, cô khuyến khích, động viên trẻ làm cho trẻ biết yêu quý lao động và sản phẩm của lao động. Hay việc cô cho trẻ vứt rác, phân loại rác, từ những hộp sữa trẻ uống xong, nay được sử dụng tạo thành những đồ chơi quanh bé, cô nên cho trẻ cùng làm những đồ dùng đồ chơi tự tạo với cô, khiến trẻ yêu quý thành quả của lao động hơn. 16
  17. Hoạt động lao động còn giúp trẻ học được tính kiên trì, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Từ đó trẻ thích được lao động và trân trọng thành quả lao đông không chỉ của mình mà của các bạn. e) Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh: Trẻ mới trong tuần đầu đến trường thường hay sợ và khóc, có một số cháu trong tuần đầu tôi chiều theo sở thích của các cháu, không ép các cháu ăn, chỉ dỗ dành, động viên các cháu ăn. Khi các cháu ăn hết thì khen ngợi các cháu. Có một số cháu ăn ít thì tăng cường thêm sữa cho cháu, khi các cháu đã thích nghi với bữa ăn ở lớp thì khuyến khích cho cháu ăn hết xuất, tự xúc ăn và rèn nề nếp khi ăn cho các cháu, biết sử dụng các đồ dùng phục vụ ăn uống, ăn uống gọn gàng không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ, biết mời trước khi ăn, trong khi ăn không nói chuyện . Trong tuần đầu đi học tôi đáp ứng một số phụ huynh có nhu cầu đưa con về buổi trưa cho cháu làm quen dần rồi để cháu ngủ trưa lại ở trường. Khi các cháu ngủ trưa tôi luôn chú ý đến giấc ngủ của các cháu. Trẻ mới đi học hay bị giật mình, khóc tôi đến vỗ về, dỗ dành và an ủi cháu, dỗ cháu ngủ lại. Có một số cháu buổi trưa khóc, khó ngủ tôi cho nằm gần cô, vỗ về dỗ dành cháu, ru cháu ngủ. Dần dần cháu sẽ có kỹ năng thích nghi được với môi trường lớp học Ngoài việc cho trẻ biết tầm quan trọng của ăn uống đầy đủ, tôi dạy trẻ không được lãng phí đồ ăn, yêu quý sản phẩm lao động. Trong các bữa ăn tôi có thể giáo dục trẻ vệ sinh, ăn uống văn minh: mời trước khi ăn, khi đang nhai không nói chuyện, ngồi ngay ngắn khi ăn không đùa nghịch, giờ ăn biết tự xúc ăn Các cô giáo đừng ngại trẻ làm lâu, đừng ngại sai vặt trẻ đó chính là cơ hội học hỏi của trẻ và nâng cao kỹ năng thích nghi của trẻ với môi trường lớp học. Những điều này muốn đạt hiệu quả cao, giáo viên không bao giờ quên thường xuyên trao đổi với phụ huynh, phối hợp cùng phụ huynh để có thể cho trẻ thường xuyên thực hành các thói quen vệ sinh, kỹ năng ăn uống, chào hỏi, kỹ năng tự phục vụ , hay cho trẻ tự giải quyết các vấn đề của riêng mình để trẻ nâng cao được kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học của bản thân Với cách dạy trẻ, cho trẻ chơi bằng nhiều hình thức khác nhau, mọi lúc mọi nơi bằng các bài thơ, bài hát, câu chuyện, các trò chơi để trẻ thấy thích thú, vui vẻ khi được đến trường, nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ. Đặc biệt với hình thức đặt ra các tình huống cho trẻ được đàm thoại, nói lên cách xử lý của mình sau đó cô sẽ giúp trẻ tổng hợp lại và tìm ra phương pháp tối ưu nhất. Chính hình thức này giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ. Đó 17
  18. cũng chính là một kỹ năng sống rất cần thiết cho trẻ thích nghi trong môi trường lớp học cũng như môi trường xã hội sau này. Giải pháp 4: Công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh và học sinh. Ngày nay nhiều phụ huynh quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho con, tuy nhiên không phải phụ huynh nào cũng hiểu tầm quan trọng của việc học kỹ năng sống và tại sao trẻ lại cần được học kỹ năng sống. Ở lứa tuổi mầm non, việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng đặc biệt là kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học, cho nên việc giúp phụ huynh hiểu rõ và phối hợp với cô trong việc nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ là một việc rất quan trọng. Có những phụ huynh nuông chiều con thái quá, hay tỏ ý nhờ vả cô nuông chiều con ngay trước mặt trẻ, điều đó làm cho trẻ tự thấy mình được đặt ra yêu sách, khóc quấy, không chịu đi học, sợ người lạ. Vì vậy mọi mối quan hệ ứng xử xung quanh trẻ phải luôn là tấm gương cho trẻ để trẻ học tập từng lời ăn tiếng nói, học tập cách sống, cách cư xử. Cô và phụ huynh tránh những lời nói thiếu hợp tác khi có trẻ, hãy luôn cho trẻ thấy cả cô và mẹ đều yêu thương trẻ và luôn thống nhất mọi nguyên tắc trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, tránh những yêu cầu trái chiều, luôn tỏ ra thân thiện, chào hỏi để trẻ học theo, từ đó trẻ làm quen với lớp học nhanh hơn, không sợ hãi khi đến lớp. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không thực hiện đơn lẻ ở trường hay ở nhà, đó phải là sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường mọi lúc, mọi nơi. Là sự thường xuyên cho trẻ trải nghiệm trong các môi trường khác nhau, để trẻ tự giải quyết các vấn đề mình gặp phải. Để làm tốt được những điều này thì cả gia đình và nhà trường cùng thực hiện. Không phải phụ huynh nào cũng hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, vì thế công tác tuyên truyền của giáo viên tới phụ huynh phải được tiến hành sớm từ đầu năm, chú trọng đến việc trao đổi với phụ huynh để cùng phối hợp về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, đặc biệt là giúp trẻ nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ. Phụ huynh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp trẻ trau dồi kỹ năng thích nghi. Tạo môi trường phù hợp cho con, tạo điều kiện cho con hòa đồng với những người xung quanh, cho con cơ hội, khuyến khích con tương tác, giao tiếp với bạn bè, thích nghi với môi trường mới ngoài gia đình là những việc không thể thiếu. Chình vì vậy giáo viên cần phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, khuyến khích phụ huynh thường xuên trao đổi, trò chuyện và chơi cùng trẻ, đưa 18
  19. trẻ đi chơi, để trẻ được giao tiếp với nhiều người và tiếp xúc với nhiều môi trường khác nhau, giúp trẻ mau chóng thích nghi. Cô sưu tầm tranh ảnh bài báo về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng thích nghi với môi trường cho trẻ dán ở góc “phụ huynh cần biết”, kêu gọi phụ huynh ủng hộ những tranh ảnh, sách báo và đồ chơi cho trẻ. Giới thiệu với phụ huynh các đầu sách hay về cách dạy con tự lập, cách rèn thói quen tốt cho trẻ hay các bài viết của các nhà tâm lý về lứa tuổi để phụ huynh hiểu hơn về giáo dục lứa tuổi, về con em mình. Có những bài viết về kỹ năng sống với tương lai của trẻ, vai trò của gia đình trong việc giáo dục kỹ năng sống của trẻ được đọc phát thanh trên loa phát thanh của trường. Phối hợp cùng các đồng nghiệp tuyên truyền tới từng phụ huynh. Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh cho rằng con mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như nghĩ rằng trẻ vẫn được sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào cha mẹ cũng ở bên con khi có tình huống xấu. Chính vì vậy, người lớn phải khéo léo, tế nhị kể cho con nghe những tình huống xấu có thể gây hại cho bé và giúp con biết cần xử lý như thế nào giúp trẻ thích nghi nhanh hơn. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ; tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình. Phụ huynh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp trẻ trau dồi, củng cố các kiến thức và kỹ năng. Chính vì vậy là người giáo viên tôi luôn phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, khuyến khích phụ huynh thường xuyên trao đổi, trò chuyện và chơi cùng trẻ, đưa trẻ đi chơi, để trẻ được giao tiếp với nhiều người và tiếp xúc với nhiều môi trường khác nhau qua đó kết hợp giáo dục cho trẻ biết yêu quý thiên nhiên, biết bảo vệ các sản phẩm của trẻ hoặc người khác tạo ra, trẻ biết cách chăm sóc cây xanh, không hái hoa, bứt lá, bẻ cành, bỏ rác đúng nơi quy định, có những hành động đúng đắn, lịch sự khi ở nhà, ở lớp cũng như ở ngoài xã hội để giúp trẻ nâng cao kỹ năng thích nghi hơn. Trẻ con vốn luôn hiếu động, hiếu kỳ và muốn khám phá những điều mới lạ. Trong cuộc sống ngày nay, khi xã hội ngày càng hiện đại, càng phát triển thì những mối nguy hiểm cho trẻ con ngày càng nhiều. Những nguy hiểm có thể xảy ra với trẻ tiềm ẩn không chỉ ở gia đình, ở trường học, ngoài đường mà còn ở 19
  20. bất kỳ đâu trong cuộc sống này. Đa phần các bậc cha mẹ đều ý thức được điều này, nhưng không phải bậc cha mẹ nào cũng có phương pháp dạy con những kỹ năng thích nghi, bảo vệ bản thân đúng đắn. Sự lựa chọn thường gặp của phụ huynh đó là tìm cách nghiêm cấm con tiếp xúc với các rủi ro. Việc chỉ nghiêm cấm mà không giáo dục, trau dồi các kỹ năng bảo vệ bản thân càng kích thích tính tò mò, muốn khám phá trong trẻ và không mang lại nhiều tác dụng. Chính vì vậy tôi đã tuyên truyền, trao đổi với phụ huynh những biện pháp cần thiết để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân mình trước những nguy hiểm từ đó giúp trẻ hình thành thói quen và kỹ năng cần thiết. Ngoài ra tuyên truyền cho cha mẹ biết cũng cần dạy cho trẻ biết những mối nguy hiểm và kỹ năng thích nghi, ứng phó với nguy hiểm mà trẻ có thể gặp phải trong gia đình, ở trường học và ngoài xã hội phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Ngoài việc trao đổi kiến thức về việc giáo dục và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ, tôi còn sưu tầm tranh ảnh bài, kêu gọi phụ huynh ủng hộ những tranh ảnh, sách báo đồ chơi cho trẻ. Vận động phụ huynh đóng góp, ủng hộ cây xanh, hạt giống một số loại rau, thùng xốp, chậu để tạo góc cây xanh, góc rau xanh cho trẻ góp phần làm xanh hóa lớp học cho trẻ. Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ trẻ. Bên cạnh đó, tôi yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ; tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình. Hàng ngày, hàng tuần tôi luôn tranh thủ thời gian trao đổi với phụ huynh những gì trẻ làm được và chưa làm được để cùng tìm ra nguyên nhân và cách nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ tốt nhất. Nhờ thường xuyên tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, các bậc phụ huynh nắm rõ hơn về tầm quan trọng của việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi với trường lớp mầm non cho trẻ 25-36 tháng, nhiệt tình phối hợp cùng cô nhằm nâng cao kỹ năng thích nghi với trường lớp mầm non cho trẻ 3. Hiệu quả giải pháp 3.1. Thời gian áp dụng của giải pháp Giải pháp được áp dụng tại trường Mầm non phường 3, năm học 2017- 2019. 20
  21. 3.2. Hiệu quả áp dụng: + Đối với giáo viên: Hiểu và có kiến thức sâu hơn về việc rèn kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng tuổi. + Đối với trẻ: 85% trẻ hết khóc trong 2 tuần đầu, trẻ tích cực hứng thú tham gia vào các hoạt động ở trong lớp. Đặc biệt trẻ rất mạnh dạn, tự tin giao tiếp trước mọi người, cháu tự lập, tự phục vụ bản thân. + Đối với phụ huynh: nhiều phụ huynh có ý thức hơn về việc rèn kỹ năng sống co trẻ. Các bậc phụ huynh hiểu biết hơn về lợi ích của việc rèn kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng tuổi trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Qua những biện pháp tôi nghiên cứu và áp dụng vào lớp mình, chất lượng về chăm sóc giáo dục trẻ lớp tôi tăng lên rõ rệt. 3.3. Khả năng triển khai, áp dụng của giải pháp: Đề tài được phổ biến, áp dụng ở trường Mầm non phường 3. Ngoài ra, đề tài còn triển khai áp dụng được cho các trường Mầm non, trong tỉnh có cùng điều kiện. 3.4. Bài học kinh nghiệm: Với những biện pháp và kết quả nêu trên bản thân tôi tự rút ra những bài học kinh nghiệm sau: Muốn cho trẻ có kỹ năng thích nghi với lớp học, trẻ hết khóc, tham gia các hoạt động tích cực và có kết quả cao thì môi trường đó phải có nhiều những đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt, mới lạ thu hút được trẻ, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của trẻ. Muốn rèn kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng tuổi, giúp cho trẻ hoạt động tích cực thì giáo viên phải trang trí xung quanh môi trường lớp bằng các hình ảnh gần gũi với cuộc sống thường ngày của trẻ và khuyến khích trẻ trang trí ở các mảng tường, ở các góc chơi cùng cô, phải thường xuyên vệ sinh môi trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, cho trẻ hưởng thụ không khí trong lành như ở chính gia đình mình vậy. Luôn nghiên cứu tham khảo tài liệu, thường xuyên học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững tân sinh lý của trẻ ở độ tuổi này, các phương pháp, áp dụng công nghệ thông tin, hình thức dạy trẻ linh hoạt sáng tạo sử dụng các thủ thuật gây hứng thú khuyến khích cho trẻ hoạt động. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, mẫu mực trong mọi hoạt động: Lời ăn, tiếng nói, việc làm. Cô yêu nghề mến trẻ tận tâm với công việc của 21
  22. mình. Luôn tìm tòi nghiên cứu các phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao. Thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ và thực hiện tốt các chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ, luôn luôn tìm tòi những cái mới đưa vào tổ chức các hoạt động để tạo sự hứng thú cho trẻ. Giáo dục cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt, không phân biệt giữa các trẻ. Xuất phát từ khả năng của trẻ giáo viên khuyến khích trẻ thực hiện nhiệm vụ học tập, không áp đặt gò bó đối với trẻ, tạo cho trẻ một tâm lí thoải mái, tích cực tham gia vào các hoạt động. Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp. Làm tốt công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải, cô giáo và cha mẹ phải luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo từ lời nói đến việc làm, động viên khuyến khích trẻ kịp thời, đối xử công bằng với trẻ. Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và đã giúp phụ huynh hiểu rằng trẻ học là phải học cả đời. Sưu tầm, làm đồ dùng, dụng cụ, đồ chơi sáng tạo cho trẻ hoạt động từ một số nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên. Tạo góc mở cho trẻ hoạt động thường xuyên. Xây dựng thư viện của lớp, tạo góc cây xanh, góc rau xanh cho trẻ. Tổ chức tốt các hoạt động văn nghệ chào mừng ngày lễ hội giúp trẻ tự tin mạnh dạn, hồn nhiên, có cảm nhận, sáng tạo phong cách biểu diễn khi thể hiện các tác phẩm nghệ thuật. Cô giáo phải có lòng nhiệt tình, tình thương yêu trẻ, gợi ý động viên để trẻ phát huy khả năng của mình. 4. Kết luận và đề xuất kiến nghị 4.1. Kết luận 22
  23. Trường học là cái nôi đầu tiên cho trẻ em bắt đầu cuộc sống và lao động. Trong nhà trường, trẻ em cần phải tiếp thu những tri thức khoa học một cách có hệ thống, những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con người mới. Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng. Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục thật tốt ngay từ khi trẻ còn ở độ tuổi mầm non. Việc nâng nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25- 36 tháng giúp trẻ mau chóng hòa nhập với lớp học, hòa đồng với cô, với các bạn, tích cực tham gia các học động, tạo cơ hội an toàn cho trẻ vui chơi, học tập mà còn là môi trường sống lành mạnh, nơi đó trẻ phải được đối xử công bằng, được quan tâm chăm sóc, giáo dục, được bảo vệ và tích cực tham gia vào quá trình học tập để phát triển nhận thức một cách toàn diện Chính vì vậy việc nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng rất quan trọng, và cần thiết. Đề tài đã đưa ra các biện pháp mới nhằm nâng cao kỹ năng thích nghi với môi trường lớp mầm non cho trẻ 25-36 tháng như: trang trí môi trường trong và ngoài lớp tạo sự thân thiện gần gũi và an toàn cho trẻ, tạo tâm thế thoải mái, giúp trẻ bớt sợ hãi, thích được đến lớp, và hứng thú tham gia vào các hoạt động cùng cô và các bạn. Nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày, tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc hình thành và nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ. Các biện pháp này đã được tôi triển khai áp dụng tại nhà trường, các giáo viên của các trường mầm non đều có thể dễ dàng vận dụng và sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 4.2. Đề xuất, kiến nghị. * Đề xuất Nhà trường: Thường xuyên tổ chức cho giáo viên được tham quan, học hỏi kinh nghiệm ở các trường bạn tại các tỉnh lân cận. Thay đổi hình thức tổ chức các hoạt động lễ hội, tổ chức nhiều hội thi có phối hợp phụ huynh và học sinh cùng tham gia để trẻ có động lực, nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ * Kiến nghị: không. 23
  24. HỘI ĐỒNG CHẤM BCSK Tôi xin cam đoan đây là SKKN của TRƯỜNG MẤM NON PHƯỜNG 3 bản thân tôi viết, không sao chép nội Điểm chấm: Xếp loại: dung của người khác Vũng tàu, ngày tháng năm Vũng tàu, ngày 25 tháng 12 năm 2018 CHỦ TỊCH Người viết (Ký tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn Thị Hoài Thương HỘI ĐỒNG CHẤM BCSK NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ VŨNG TÀU Điểm chấm: Xếp loại: Vũng Tàu, ngày tháng năm 201 CHỦ TỊCH (Ký tên, đóng dấu) 24
  25. HỘI ĐỒNG CHẤM BCKN NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BR-VT Điểm chấm: Xếp loại: , ngày tháng năm 201 CHỦ TỊCH (Ký tên, đóng dấu) 25
  26. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí giáo dục mầm non 2. Chương trình giáo dục Mầm non. 3. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục Mầm non Nhà trẻ (3-36 tháng tuổi) 4. Tâm lý giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. 5. Dựa vào kinh nghiệm thực tiễn. 6. Qua sách báo và thông tin trên mạng 26