Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Bài 18: Phép phân tích và tổng hợp - Năm học 2017-2018 - Ngô Thị Thủy

ppt 22 trang thuongdo99 3520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Bài 18: Phép phân tích và tổng hợp - Năm học 2017-2018 - Ngô Thị Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_ngu_van_lop_9_bai_18_phep_phan_tich_va_tong_hop_na.ppt

Nội dung text: Bài giảng Ngữ văn Lớp 9 - Bài 18: Phép phân tích và tổng hợp - Năm học 2017-2018 - Ngô Thị Thủy

  1. • CHÀO MỪNG MÔN: NGỮ VĂN 9 Giáo viên thực hiện: NGÔ THỊ THỦY
  2. VĂN NGHỊ LUẬN Phép Phép Phép lập luận lập luận phân tích và giải thích chứng minh tổng hợp
  3. VĂN BẢN TRANG PHỤC Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu, phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người. Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay! Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp. (Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường)
  4. VĂN BẢN TRANG PHỤC Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu, phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người. Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay! Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp. (Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường) -Kiểu văn bản: Nghị luận. - Vấn đề nghị luận: Trang phục có văn hoá phù hợp với đạo đức, môi trường.
  5. VĂN BẢN TRANG PHỤC Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu, phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ MỞ BÀI không ai mặc quần áo chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất (Đoạn 1) đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mặt mọi người. Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm THÂN BÀI bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. (Đoạn 2,3) Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay! Thế mới biết, trang phục hợp văn hoá, hợp đạo đức, hợp môi trường KẾT BÀI mới là trang phục đẹp. (Đoạn 4) (Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường)
  6. VĂN BẢN: TRANG PHỤC Đoạn văn 1: Mở bài Không kể trên đường tuần tra, nơi rừng rậm hay suối sâu, phải cởi giày ra đi chân đất, thông thường trong doanh trại hay nơi công cộng, có lẽ không ai mặc áo quần chỉnh tề mà lại đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt trước mặt mọi người.
  7. VĂN BẢN TRANG PHỤC * Đoạn văn 2,3: Thân bài Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay
  8. VĂN BẢN TRANG PHỤC * Đoạn văn 2,3: Thân bài Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tự hoà mình vào cộng đồng như thế, không kể hình thức còn phải đi với nội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay !
  9. HOẠT ĐỘNG NHÓM NHÓM 1: Đoạn văn 2 Người ta nói: “Ăn cho mình, mặc cho người”, có lẽ nhiều phần đúng. Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài cánh đồng vắng chắc không chải đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp Trang phục không có pháp luật nào can thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. Muốn làm sáng tỏ luận điểm chính ở đoạn 2, tác giả đưa ra lí lẽ, dẫn chứng gì và lập luận ra sao?
  10. HOẠT ĐỘNG NHÓM NHÓM 2: Đoạn văn 3 Người xưa đã dạy: “Y phục xứng kì đức”. Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với hoàncảnh riêng của mình và hoàn cảnhchung nơi công cộng hay toàn xã hội. Dù mặc đẹp đến đâu,sang đến đâu mà không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi Với cái giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. Người có văn hoá, biết ứng xử chính là người biết tựhoà mình vào cộng đồng như thế, không kểhình thức còn phải đi vớinội dung, tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Chí lí thay ! Muốn làm sáng tỏ luận điểm chính của đoạn 3, tác giả đã đưa ra lí lẽ, dẫn chứng gì và lập luận ra sao?
  11. NHÓM 1: Đoạn văn 2 - Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt Dẫn chứng: xanh môi đỏ, không tô đỏ chót móng chân móng tay. Luận điểm: Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá Ăn cho ngoài cánh đồng vắng chắc không chải mình, đầu mượt bằng sáp thơm, áo sơ-mi là phẳng tắp. mặc cho người Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn. - Đi dự đám tang không được mặc áo quần lòe loẹt, nói cười oang oang. -Trang phục không có pháp luật nào can Lí lẽ thiệp, nhưng có những quy tắc ngầm phải tuân thủ, đó là văn hoá xã hội. Phép lập luận chứng minh + từ phủ định, giả thiết.
  12. NHÓM 2: Đoạn văn 3: Ăn mặc ra sao cũng phải phù hợp với Lí lẽ hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã hội. Luận điểm: Dù mặc đẹp đến đâu, sang đến đâu mà Lí lẽ không phù hợp thì cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ, làm mình tự xấu đi mà thôi. Y phục xứng Xưa nay, cái đẹp bao giờ cũng đi với cái kì giản dị, nhất là phù hợp với môi trường. đức Người có văn hoá, biết ứng xử chính là Lí lẽ người biết tự hoà mình vào cộng đồng Như thế, không kể hình thức còn phải đi Với nội dung tức là con người phải có trình độ, có hiểu biết. Một nhà văn đã nói: “Nếu có cô gái khen tôi Dẫn chứng chỉ vì bộ quần áo đẹp mà không khen tôi có bộ óc thông minh thì tôi chẳng có gì đáng hãnh diện”. Phép lập luận giải thích + so sánh, đối chiếu
  13. Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận,phương diện của một vấn đề để nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng, người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu, và cả phép lập luận giải thích,chứng minh.
  14. VĂN BẢN TRANG PHỤC Đoạn 4 : Kết bài Thế mới biết, trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường mới là trang phục đẹp. Khái quát, chốt lại vấn đề, rút ra cái chung từ những điều phân tích trên. - Vị trí: Cuối đoạn văn, cuối một phần văn bản, cuối văn bản.
  15. Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản.
  16. Ghi nhớ • Để làm rõ ý nghĩa của một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta thường dùng phép phân tích và tổng hợp. • Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu, và phép lập lụân giải thích, chứng minh. • Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản.
  17. BÀI TẬP 1 Chu Quang Tiềm đã phân tích như thế nào để làm sáng tỏ luận điểm: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn”? Đoạn văn: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn. Bởi vì học vấn không chỉ là việc cá nhân, mà là việc của toàn nhân loại. Mỗi loại học vấn đến giai đoạn hôm nay đều là thành quả của toàn nhân loại nhờ biết phân công, cố gắng tích luỹ ngày đêm mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách vở ghi chép, lưu truyền lại. Sách là kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại, cũng có thể nói đó là những cột mốc trên con đường tiến hoá học thuật của nhân loại. Nếu chúng ta mong tiến lên từ văn hoá, học thuật của giai đoạn này, thì nhất định phải lấy thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ làm điểm xuất phát. Nếu xoá bỏ hết các thành quả nhân loại đã đạt được trong quá khứ, thì chưa biết chừng chúng ta đã lùi điểm xuất phát về đến mấy trăm năm, thậm chí là mấy nghìn năm trước. Lúc đó, dù có tiến lên cũng chỉ là đi giật lùi, làm kẻ lạc hậu.”
  18. * Luận điểm: - Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của học vấn. * Các luận cứ: - Học vấn là của nhân loại. Tác giả nêu ra - Học vấn của nhân loại là do sách lưu luận điểm cơ bản truyền lại. làm tiền đề cho - Sách là kho tàng quý báu tích luỹ mọi thành lập luận tựu mà loài người đã tìm được qua từng thời đại. - Nếu chúng ta mong muốn tiến lên từ văn hoá thì phải lấy thành quả đã đạt được trong dùng giả thiết quá khứ làm điểm xuất phát. để phân tích - Nếu chúng ta xoá bỏ hết các thành quả làm sáng rõ cho nhân loại đã đạt được trong quá khứ thì luận điểm. chúng ta đã lùi điểm xuất phát đến mấy nghìn năm.
  19. Bài tập 2: Lí do phải chọn sách để đọc Sách nhiều khiến người Sách nhiều dễ khiến người ta không chuyên sâu, đọc lạc hướng. Đọc tham đọc sách theo kiểu liếc nhiều mà không vụ thực qua, tuy rất nhiều nhưng chất thì sẽ lãng phí thời gian đọng lại thì rất ít. Từ đó và sức lực bởi những cuốn nảy sinh thói hư danh, sách vô bổ, bỏ lỡ những nông cạn. cuốn sách quan trọng, cơ bản. BÀI TẬP VẬN DỤNG Từ những lí do phải chọn sách trên, em hãy viết phần tổng hợp cho vấn đề đã nêu?
  20. So sánh sự giống và khác nhau giữa phép phân tích và phép tổng hợp: PHÂN TÍCH TỔNG HỢP Giống nhau Mục đích: giúp người đọc, người nghe nhận thức đúng, hiểu đúng, đủ vấn đề. Khác nhau Trình bày từng bộ phận, Khái quát rút phương diện của vấn đề ra cái chung từ Cách thức để chỉ ra nội dung của những điều sự việc, hiện tượng. phân tích. Giúp ta hiểu vấn đề cụ thể, chi tiết qua nhiều khía Giúp ta khái quát, nâng Vai trò cạnh, nhiều góc độ, nhiều bình diện khác nhau. Từ cao vấn đề. đó, thấy được nội dung, ý nghĩa của vấn đề.
  21. Hướng dẫn học ở nhà 1. Học bài: - Học bài. - Làm các bài tập 3. 2. Soạn bài: - Chuẩn bị bài: Luyện tập phép phân tích và tổng hợp.