Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9

doc 18 trang Đăng Bình 05/12/2023 1590
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_lam_bai_nghi_luan_xa_hoi_c.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh Lớp 9

  1. MỤC LỤC Chương 1: CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1 I. Sự cần thiết hình thành giải pháp 1 1. Cơ sở pháp lý 1 2. Cở sở lí luận 2 3. Cơ sở thực tiễn 3 II. Đối tượng và phạm vi áp dụng 5 Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP 6 1. Qúa trình hình thành 6 2. Giải pháp đã nghiên cứu hay áp dụng, thử nghiệm 6 III. Giải pháp và biện pháp thực hiện hiện nay 8 1. Định hướng cho học sinh 8 2. Khắc sâu lí thuyết về bài văn nghị luận xã hội. 8 3. Hướng dẫn cách làm bài cụ thể. 10 4. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội 15 5. Giáo viên cần có những bài văn mẫu để đọc cho học sinh tham khảo. 15 Chương III: HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP 16 CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 17 1. Kết luận 17 2. Đề xuất 17 - 1 -
  2. Chương 1: CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP I. Sự cần thiết hình thành giải pháp 1. Cơ sở pháp lý Môn ngữ văn được tích hợp 3 phân môn: văn học, tiếng việt, tập làm văn. Phân phối chương trình đều có tiết kiểm tra riêng của từng phân môn, trong đó các bài viết Tập làm văn tại lớp có một vị trí đặc biệt quan trọng, gần như là kết quả đánh giá quá trình học tập bộ môn của học sinh Mặt khác, đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá là hai mặt của một vấn đề. Tháng 8/2008, Bộ GD - ĐT và Viện KHGD đã tổ chức tập huấn “Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh THCS” với tinh thần và phương châm là: “thay đổi cách ra đề Tập làm văn theo hướng “mở” không trói buộc sự tưởng tượng và sáng tạo độc lập của học sinh. Theo đó, nội dung của đề bài không những có trong chương trình mà có thể mở rộng tới những vùng kiến thức, kĩ năng tương tự nằm ngoài chương trình, miễn sao những đơn vị kiến thức đó không quá xa lạ với học sinh ”. Bên cạnh đó là sự điều chỉnh đổi mới khuynh hướng ra đề quá thiên về nghị luận văn học, hướng tới những dạng đề gắn với thực tiễn cuộc sống thiên nhiên và cuộc sống con người của chúng ta ngày nay. Như vậy, bên cạnh các dạng đề nghị luận văn học truyền thống với những ưu thế riêng không thể phủ định thì các đề bài nghị luận xã hội cũng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mục tiêu giáo dục hiện nay nói chung và mục tiêu của môn Ngữ văn trong trường THCS nói riêng. Trong những năm gần đây kiểu văn nghị luận xã hội đã được chú trọng trong các nhà trường trung học. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu chí đánh giá đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT rồi đến kì thi Đại học. Sự chuyển biến này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội giúp học sinh không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Thế nhưng thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là nhỏ. Học sinh quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục, dung lượng một bài không được quá dài, chỉ được viết trong một thời gian ngắn về một vấn đề trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo khoa Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh. Trong những năm qua, bản thân tôi luôn được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9, tôi luôn có ý thức trong việc giảng dạy, đặc biệt đã chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận nói chung và bài văn nghị luận xã hội nói riêng, vì đây là một vấn đề đang được xem là mới và khó. Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận xã hội ở trường THCS hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em ở các bậc học tiếp theo, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh - 2 -
  3. nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em. 2. Cở sở lí luận “Văn nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống hay trong văn học bằng các luận điểm, luận cứ và lập luận”. Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận dụng các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh ”. Dựa theo cách hiểu của Từ điển từ và ngữ Hán Việt về xã hội (“xã hội là một tập thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác”); chúng ta có thể hiểu Nghị luận xã hội là kiểu bài hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Phạm vi của nghị luận xã hội rất rộng, có thể kể tới những nội dung quan trọng như: mối quan hệ của con người với môi trường sống, mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng, các vấn đề về lối sống, lý tưởng sống, những hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực của đời sống xã hội Việc bàn luận về những vấn đề trên sẽ góp phần làm cho nhận thức và tâm hồn của con người thêm phong phú, tạo cho mỗi người ý thức chăm sóc cuộc sống tinh thần của mình và xây dựng các mối quan hệ trong xã hội, trong cộng đồng ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Không chỉ vậy, nó còn có khả năng rèn năng lực tư duy, giúp con người có thể đối diện với các vấn đề xã hội và biết cách giải quyết những vấn đề ấy. Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Đề tài của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn cầu hoá Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học, nhà văn làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị. Như chúng ta đã biết trong cấu trúc đề thi cấp huyện, cấp tỉnh, hay thi vào THPT môn Ngữ văn những năm gần đây đều có câu hỏi, yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn khoảng một trang giấy thi. Có hai dạng bài cụ thể là: - Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Học sinh phải biết bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. Ở kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh qua những trải nghiệm của bản thân, trình bày những hiểu biết, ý kiến, quan niệm, cách đánh giá, thái độ của mình về các vấn đề xã hội, từ đó rút ra được bài học (nhận thức và hành động) cho bản thân. Để làm tốt khâu này, học sinh không chỉ biết vận dụng những thao tác cơ bản của bài văn nghị luận (như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ ) mà còn phải biết trang bị cho mình kiến thức về đời sống xã hội . - 3 -
  4. Bài văn nghị luận xã hội nhất thiết phải có dẫn chứng thực tế. Cần tránh tình trạng hoặc không có dẫn chứng hoặc lạm dụng dẫn chứng mà bỏ qua các bước đi khác của quá trình lập luận. Mặt khác với kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh cần làm rõ vấn đề nghị luận, sau đó mới đi vào đánh giá, bình luận, rút ra bài học cho bản thân. Thực tế cho thấy nhiều học sinh mới chỉ dừng lại ở việc làm rõ vấn đề nghị luận mà coi nhẹ khâu thứ hai, vẫn coi là phần trọng tâm của bài nghị luận Vì những yêu cầu trên mà việc rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt một bài văn nghị luận xã hội là một việc làm rất cần thiết. 3. Cơ sở thực tiễn - Thực trạng chung: Thực trạng học và làm bài văn nghị luận nghị luận xã hội đang là một vấn đề được quan tâm trong các trường Trung học cơ sở nói chung và trường THCS Phước Thắng nói riêng. Theo thống kê và theo dõi kết quả thi học, kì, thi học sinh giỏi, thi vào PHPT của mấy năm gần đây thì chất lượng làm bài môn Ngữ văn của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên phần điểm bị trừ trong bài lại rơi vào phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do cách diễn đạt của các em chưa được tốt. Các ý còn chung chung, chưa cụ thể và rõ ràng, kiểu nghị luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa có. Nhiều em còn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt có em còn xác định sai đề, dẫn đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ quan hoặc tái hiện quá máy móc dập khuôn trong tài liệu, thậm chí có chỗ nhầm nghị luận về tư tưởng đạo lí sang nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống Sở dĩ chất lượng phần văn nghị luận xã hội còn chưa đạt yêu cầu như vậy là do nhiều nguyên nhân: - Về giáo viên: Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã nắm chắc được cấu trúc của các đề thi học sinh giỏi và thi vào lớp 10, một phần không thể thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội. Tư tưởng học sinh chủ quan khi làm bài lại chỉ chăm chú đến phần nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm tối đa. Hơn nữa lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn hay là câu chữ phải “bay bỗng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu từ, nhiều từ “sang”, nhiều thuật ngữ “oách” mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngôn ngữ bình thường. - Về học sinh: Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú muốn học môn Ngữ văn, nhất là ngại làm những bài văn. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại mất nhiều thời gian, “công thức” làm văn cho các em lại không hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng tạo lập văn bản của một số học sinh ở trường THCS Phước Thắng còn yếu chưa có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại làm sang nghị luận về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với bài nghị luận xã hội dung lượng quy định (chỉ khoảng 1 trang giấy thi) nhiều học sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà bài lại không cô đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy kiểu bài này các em đều quan niệm là bài văn “khô khan” nên bài viết chưa có sức hút, chưa lay động được tâm hồn người - 4 -
  5. đọc. Ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: Cách lập luận, dùng từ, câu Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau: Năm học 2017-2018. Số HS không biết Số HS biết cách làm Số HS làm bài tốt Lớp Sĩ cách làm bài (1- bài ở mức trung (8-9 điểm) số >4điểm) bình-khá (5->7điểm) SL % SL % SL % 9.4 36 10 27.8 22 61.1 4 11.1 Kết quả trên đây cho thấy nguyên nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa biết làm bài văn nghị luận tốt. Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội là rất cần thiết. II. Đối tượng và phạm vi áp dụng Học sinh lớp 9.5 năm học 2018-2019 - 5 -
  6. Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP 1. Qúa trình hình thành Xuất phát từ chức năng phản ánh của văn học mà hiện thực trở thành thuộc tính tất yếu của mỗi tác phẩm văn học. Trong bất kì tác phẩm văn học nào, chúng ta cũng thấy hơi thở, bóng dáng của hiện thực đời sống khách quan được nhà văn phản ánh. Cho nên, dù các tác phẩm văn học ra đời ở giai đoạn, thời kì nào thì những vấn đề xã hội mà nó đề cập vẫn có ý nghĩa với cuộc sống hiện tại. Tiếp nhận một tác phẩm văn học, người đọc không chỉ suy tư, chiêm nghiệm về những vấn đề xã hội ở thời đại mà tác phẩm ra đời ; mà họ còn có cơ hội nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo về những vấn đề của đời sống nhân sinh trên cơ sở so sánh xã hội hôm qua và hôm nay ; xã hội được nhà văn phản ánh và xã hội hiện tại mà mình đang sống Ngoài ra, do đặc trưng của hoạt động tiếp nhận văn học nên người đọc có thể bộc lộ quan điểm của bản thân về một nội dung nào đó, không lệ thuộc vào cách nhìn của người khác. Chính điều này trở thành cơ sở cho sự ra đời của những đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học Đề văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá ở môn học này. Trong những năm học gần đây, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc đổi mới cách ra đề văn: từ nội dung kiểm tra đến hình thức, cấu trúc của một đề bài. Trong đó, cách hỏi ở câu Nghị luận xã hội càng lúc càng phong phú, đa dạng. Không dừng lại ở những câu hỏi có tính chất khuôn mẫu như dựa vào một ý kiến hay nêu ra một hiện tượng để yêu cầu học sinh bàn luận; mà có nhiều đề bài mở đầy sáng tạo đã ra đời và được dư luận đánh giá cao. Trong đó, kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học được xem là cách hỏi “vừa quen, vừa lạ”; vừa mô phạm, vừa kích thích sáng tạo; vừa kiểm tra được năng lực cảm thụ văn học; vừa đánh giá được tư duy lo-gic và kiến thức xã hội của học sinh Đó là lí do sự xuất hiện của kiểu bài này càng lúc càng nhiều, nhất là trong xu hướng đổi mới kiểm tra môn Ngữ văn theo định hướng năng lực hiện nay. 2. Giải pháp đã nghiên cứu hay áp dụng, thử nghiệm *Phân tích đề: HS thường có một nhược điểm: Cầm đề là viết ngay – Đây là một trong những nguyên nhân làm bài viết các thấp điểm hoặc có khi lệch hướng. Vì vậy, HS phải đọc kĩ đề bài, sau đó phân tích đề để học sinh sẽ không mắc phải những lỗi như xa đề, lạc đề. chú ý những từ khóa của đề, rồi dựa vào từ điển Tiếng Việt để phân tích, giải thích ý của tư tưởng, vấn đề trong đề bài thật chính xác. Tiếp đến, các em hãy đánh giá xem quan điểm, tư tưởng, hiện tượng xã hội đó đúng hay sai, có các mặt lợi và hại thế nào, từ đó mà nêu ý kiến của bản thân có đồng tình hay không và rút ra bài học, cách giải quyết cho bản thân và xã hội? Để cho đánh giá đúng sai đó thuyết phục, hd các em cần lấy những dẫn chứng thực tế xác thực (có thể lấy trong lịch sử, văn học hay đời sống thực tế). Lưu ý HS: Văn nghị luận xã hội khác với nghị luận văn học ở chỗ nó là những kiến thức thật 100% và rất thực tế với cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, quan sát cuộc sống và đọc báo, theo dõi các phương tiện thông tin - 6 -
  7. thường xuyên là bí quyết giúp các em cập nhật những thông tin mới làm dẫn chứng sắc sảo cho bài viết của mình. *Tìm luận điểm: Việc xác định luận điểm hầu như học sinh biết cách xác định. Còn việc tìm và nêu luận cứ (lý lẽ và dẫn chứng) để làm sáng tỏ luận điểm có những đòi hỏi cao hơn vì phải tự trả lời các câu hỏi đặt ra ở luận điểm. Nghĩa là việc trả lời các câu hỏi mà luận điểm đưa ra chính là các luận cứ của luận điểm ấy. Điều này lại tùy thuộc vào năng lực của từng cá nhân. Tuy vậy phải thấy rằng học sinh biết cách xác định và xác định được những luận điểm của vấn đề, nêu được một số ý làm luận cứ, tuy chưa thật đầy đủ nhưng cũng có thể được coi là đạt mức trung bình so với yêu cầu đề ra của bài làm. *Văn phong: Cách viết văn nghị luận xã hội cần sự ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn phải đầy đủ ý và không được khô khan. Muốn làm được điều đó hs cần có một dàn bài ( Đại cương) trước khi đặt bút làm bài. Nếu như có những dẫn chứng hay thì nên chen vào giữa bài làm để tránh sự nhàm chán và khô khan cho bài văn. Đừng nên viết quà dài và lan man không sát chủ đề, khi ấy bài văn của bạn rất dễ bị điểm kém. Bên cạnh đó bạn nên tận dụng cách viết sáng tạo, nó sẽ giúp HS điểm tuyệt đối . – Suy luận sắc bén là yếu tố làm nên sức mạnh của bài nghị luận xã hội vì vậy mà hs cần chú ý xác lập ý lớn, ý nhỏ, sắp xếp các lập luận chặt chẽ, bố cục hợp lý, đảm bảo logic đồng thời kết hợp với giọng văn trôi chảy, giàu cảm xúc. *Chú ý thời gian: Thường thì HS chỉ có được khỏang từ 2-3 điểm cho một bài nghị luận xã hội trong một đề văn nên cần hết sức lưu ý về thời gian. Nếu như có 120 phút cho một đề văn thì chỉ nên dành 1/3 khỏang thời gian ấy để làm nghĩ lụân xã hội. Một bài nghị luận xã hội thường không đòi hỏi phải viết dài , chỉ cần hs chú ý đến nội dụng và chọn lọc những dẫn chứng thật sắc sảo và thuyết phục, bài viết của các em sẽ sâu hơn và dễ đi vào lòng người đọc hơn! *Rèn luyện kỹ năng Lập dàn bài. (Mang tính then chốt) Dàn bài được lập một cách chi tiết hay sơ lược phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể. Trong quá trình ôn tập, hs làm quen với việc lập dàn ý chi tiết. Còn trong phòng thi, để tiết kiệm thời gian gv nên hd hs vạch nhanh một số ý chính để hình dung hướng đi bài viết của mình. *Đối với kiểu bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống: Thực tế , hs còn hạn chế trong việc định hình được cấu trúc của bài nghị luận ( Khi đã không xác định được cấu trúc thì hs sẽ khó khăn trong việc xácđịnh luận điểm, luận cứ).Vì vậy, từ việc hướng dẫn hs nhận dạng đề bài, gv rèn luyện cho các em kĩ năng lập dàn bài đại cương trước khi viết bài với cấu trúc như sau: 1.Mở bài: (Dẫn dắt vấn đề và nêu vấn đề. Viết ngắn gọn khoảng 3-5 câu ) 2.Thân bài: + Giải thích các thuật ngữ - 7 -
  8. + Biểu hiện: + Nguyên nhân + Tác hại ( lợi ích) + Biện pháp ( Giải pháp) 3.Kết bài: ( Khẳng định, nhấn mạnh vấn đề. Liên hệ bản thân. Viết ngắn gọn khoảng 5 câu) * Đối với kiểu bài nghị luận về tư tưởng đạo lí 1. Mở bài: (Dẫn dắt vấn đề và nêu vấn đề. Viết ngắn gọn khoảng 3-5 câu ) 2.Thân bài: + Giải thích nghĩa: + Ý nghĩa vấn đề: + Phân tích làm sáng tỏ vấn đề: ( D/c+ Lí lẽ trong thực tế c/s, trong văn học) + Mở rộng vấn đề ( Mặt trái ) 3. Kết bài: (Khẳng định, liên hệ bản thân. Viết ngắn gọn khoảng 5 câu): Nếu rèn được cho học sinh thuần thục những biện pháp như trên đã nêu thì bài làm của học sinh tối thiểu cũng đủ ý, không lạc đề và sẽ đạt được mức trung bình trở lên.hơn nữa học sinh sẽ có những thao tác tư duy cần thiết để bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình một cách đúng đắn về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra. III. Giải pháp và biện pháp thực hiện hiện nay 1. Định hướng cho học sinh Trước hết giáo viên cần phải dập tắt trong các em quan niệm: Văn nghị luận là loại văn “khô khan” là chưa hợp lí, vì ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp dẫn là ở chất lượng. Tiểu thuyết mà viết dở thì cũng khô khan mà thôi. Chất lượng một bài văn nghị luận phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: cách lập luận, dùng từ, câu Cảm hứng là yếu tố đầu tiên. Sau là phải có kiến thức: Có thể việc hiểu biết về vấn đề cần bàn càng phong phú thì càng dễ cho mình “tung hoành” trong bài viết. Kiến thức phong phú cũng có nghĩa là mình nắm được lẽ phải, giúp cho mình đưa ra những luận điểm chắc chắn, giàu sức thuyết phục, không thể bác bỏ như cố nhân đã tổng kết: “Nói phải củ cải cũng nghe”. Trái lại nếu kiến thức nghèo nàn hay sáo rỗng thì bài văn nhạt nhẽo, nặng nề, hô khẩu hiệu. Cần nhớ rằng văn nghị luận là làm sao để người khác “Tâm phục khẩu phục” chứ không phải áp đặt cách hiểu của mình cho người khác. Khi kiến thức đã phong phú thì các yếu tố kĩ thuật của văn bản, về cơ bản sẽ biết sử dụng một cách tự nhiên. Bởi vì một triết gia đã nói “Cái gì được quan niệm rõ ràng thì diễn đạt sẽ mạch lạc”. Việc trau dồi và cẩn trọng trong công tác kĩ thuật thì không - 8 -
  9. bao giờ thừa. Luôn luôn phải cân nhắc, sắp xếp cái nào trước, cái nào sau, chọn đi chọn lại từ nào cho chuẩn xác, sinh động. 2. Khắc sâu lí thuyết về bài văn nghị luận xã hội. Về kiểu bài nghị luận xã hội, Bộ giáo dục và Đào tạo đã quy định trong cấu trúc đề thi năm 2010. Theo đó, học sinh phải vận dụng kiến thức xã hội và đời sống viết bài nghị luận xã hội (khoảng 300 từ) đối với học sinh THCS, (khoảng 600 từ) đối với học sinh THPT. Vì vậy muốn làm tốt kiểu bài này trước hết giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm chắc phần lí thuyết thì mới vận dụng tốt trong khi làm bài. Kiểu bài này có hai dạng bài cụ thể là: + Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. + Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Học sinh cần bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. a) Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. *Khái niệm: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng, đời sống xã hội là nêu ý kiến của mình, bàn luận, đánh giá của mình về sự việc, hiện tượng ấy. *Yêu cầu: - Nội dung: Phải trình bày rõ nội dung, bản chất của sự việc,hiện tượng, phải trình bày rõ thái độ, ý kiến của người viết về mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó. - Hình thức: Sự bàn luận, đánh giá phải có luận điểm rõ ràng, được trình bày bằng các luận cứ xác thực, bằng các phép lập luận phù hợp. - Lời văn có sức thuyết phục. * Bố cục: Bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cũng phải đảm bảo các phần chặt chẽ, mạch lạc theo yêu cầu chung của một bài văn nghị luận. - MB: Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề sẽ bàn luận. - TB: Phân tích các mặt của sự việc, hiện tượng, trình bày ý kiến, sự đáng giá của mình. - KB: Khẳng định, phủ định, khái quát ý nghĩa của vấn đề nghị luận. b) Nghị luận về một vấn đề về tư tưởng đạo lí. * Khái niệm: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người. *Yêu cầu: - Về nội dung: Làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó nhằm khẳng định tư tưởng của người viết. -Về hình thức: Bài văn phải có bố cục 3 phần rõ ràng, luận điểm đúng đắn, lập luận chặt chẽ, mạch lạc. -Lời văn: Rõ ràng, sinh động. * Bố cục: Có bố cục chặt chẽ, hợp lí theo yêu cầu chung của một bài văn nghị luận. - MB: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận. - TB: Lần lượt giải thích, chứng minh, phân tích các nội dung của vấn đề tư tưởng, đạo lí đó; đồng thời nêu ý kiến bàn luận, đánh giá của mình. - KB: Tổng kết, nêu ý nghĩa, bài học của vấn đề nghị luận. - 9 -
  10. Lưu ý: Khắc sâu để học sinh nắm được kiến thức của từng kiểu bài là hết sức quan trọng để các em vận dụng tốt trong quá trình làm bài cụ thể. Tuy nhiên làm bài nghị luận xã hội giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh các lưu ý sau: *Chú ý đọc kĩ đề bài, xác định dạng đề bài: Trong thực tế một số đông học sinh hiện nay vẫn còn nhầm lẫn giữa dạng đề bài nghị luận về tư tưởng đạo lý và dạng đề bài nghị luận về hiện tượng đời sống. Cách nhận diện đơn giản là ở đề bài bàn về sự việc hiện tượng đời sống xã hội thường xuất hiện ở sự việc, sự kiện mang tính thời sự cao và yêu cầu học sinh bàn luận trực tiếp về chính những sự việc, sự kiện đã được đề cập. Trong khi đó đề bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý thường yêu cầu học sinh bàn luận về ý kiến, cách đánh giá nào đó (cũng có thể với ngay sự việc, sự kiện mang tính thời sự cao). Nhiều học sinh băn khoăn, lúng túng khi xử lý đề bài bàn cùng một lúc về hai hiện tượng đời sống. Học sinh cần xác định, nếu là hai hiện tượng trái chiều, đối lập nên tách riêng từng hiện tượng, để bàn luận về nguyên nhân, tác dụng, hậu quả của từng hiện tượng, từ đó rút ra bài học nhận thức, hành động. Ở hai hiện tượng xã hội có tính chất tương đồng, lại cần nhập lại để cùng bàn luận về nguyên nhân, tác dụng, hậu quả. *Tăng cường quan sát, cập nhật thông tin: Một điều không thể phủ nhận là những bài nghị luận xã hội đạt điểm cao bao giờ cũng có dẫn chứng thực tế, sát đúng với của đề. Học sinh cần sắp xếp và bố trí thời gian phù hợp để đọc sách báo, xem truyền hình để làm phong phú vốn sống, tránh tình trạng bị lạc hậu so với cuộc sống đang diễn ra xung quanh. *Chọn lọc và xử lí thông tin. Việc đọc sách báo, tin tức rất cần thiết nhưng phải biết chọn lọc thông tin, học sinh có thể bị “nhiễu”, một số học sinh chưa biết xử lí thông tin có thể gây hoang mang, thậm chí dẫn đến cách hiểu sai lệch. 3, Hướng dẫn cách làm bài cụ thể. a) Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống: Cuộc sống đang từng giờ, từng phút trôi qua cùng biết bao thay đổi và biết bao sự kiện. Có thể nói chính những sự việc, hiện tượng đời sống là mảng đề tài hết sức hấp dẫn, phong phú người ra đề lựa chọn các mảng đề tài khác nhau để ra đề như: Môi trường, dân số, trẻ em, tệ nạn xã hội Để làm tốt dạng đề nghị luận xã hội về sự việc hiện tượng đời sống đang được dư luận xã hội quan tâm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý. *Làm bài nghị luận về sự việc đời sống. - Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lời văn có sức thuyết phục. - Yêu cầu về nôi dung. + Nêu thực trạng của vấn đề. + Biểu hiện – phân tích tác hại. + Nguyên nhân. + Biện pháp khắc phục (hướng giải quyết) + Ý thức bản thân đối với vấn đề nghị luận. Ví dụ : - 10 -
  11. Với nhan đề: Môi trường sống của chúng ta. Dựa vào những hiểu biết của em về môi trường, viết một bài văn ngắn trình bày quan niệm của em và cách làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Nêu vấn đề và triển khai thành bài văn nghị luận gồm các ý cơ bản sau: a. Mở bài: (Nêu vấn đề nghị luận) Môi trường sống của chúng ta thực tế đang bị ô nhiễm và con người chưa có ý thức bảo vệ. b. Thân bài: - Giải thích - Biểu hiện: + Xã hội. + Nhà trường. - Nguyên nhân: + Chủ quan + Khách quan - Tác hại: + Làm hại đến sức khỏe + Làm hại đến sự sống. + Làm cảnh quan bị - Giải pháp: + Tuyên truyền để mỗi người tự rèn cho mình ý thức bảo vệ môi trường. + Coi đó là vấn đề cấp bách của toàn xã hội. c. Kết bài: Khẳng định lại vai trò của môi trường. *Nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, diễn đạt có cảm xúc. - Yêu cầu về nội dung cần đảm bảo các ý sau: + Giải thích hiện tượng. + Trình bày suy nghĩ của người viết về hiện tượng ấy. + Liên hệ thực tế đời sống. + Nêu tác dụng ảnh hưởng và bài học rút ra. Ví dụ : Đề bài: “Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp”. Viết một một bài văn nghị luận (Khoảng 300 từ) nêu suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên. Gợi ý. Với dạng bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập theo ý. *Về hình thức: Trình bày thành văn bản nghị luận ngắn, có bố cục 3 phần rõ ràng (Mở bài, thân bài, kết bài), yêu cầu không quá 300 từ. *Về nội dung: - Giải thích hiện tượng: là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên, gợi tả sức chịu đựng, sức sống kì diệu của những loài cây “vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp” ngay trong “một vùng sỏi đá khô cằn” (có thể đi từ việc giải thích từ ngữ: Vùng sỏi đá khô cằn, chỉ sự khắc nghiệt của môi trường sống; loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm thật đẹp; sự thích nghi, sức chịu đựng, sức sống, vẻ đẹp). - Trình bày suy nghĩ: Hiện tượng thiên nhiên nói trên gợi suy nghĩ về vẻ đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào vẫn thể hiện nghị lực phi thường, sức chịu đựng và sức sống kì diệu nhất. Đối với họ nhiều khi sự gian khổ, khắc nghiệt của hoàn cảnh lại - 11 -
  12. chính là môi trường để tôi luyện, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc sống. “Những chùm hoa thật đẹp” “Những chùm hoa trên đá” (Thơ: Chế Lan Viên). Thành công đạt dược thật có giá trị vì nó là kết quả của những cố gắng phi thường, sự vươn lên không mệt mỏi. Vẻ đẹp của những cống hiến, những thành công mà họ dâng hiến cho cuộc đời lại càng có ý nghĩa hơn, càng “rực rỡ” hơn - Liên hệ thực tế : Không có ai ở Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Kí đã bị liệt cả hai tay, nhưng anh đã kiên trì luyện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ - Nêu tác dụng, ảnh hưởng, bài học rút ra từ hiện tượng : Những con người với vẻ đẹp của ý chí, nghị lực luôn là niềm tự hào, ngưỡng mộ của chúng ta, động viên và thậm chí cảnh tỉnh những ai chưa biết chấp nhận khó khăn, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống. b. Hướng dẫn làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý: * Lưu ý : Đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí khá đa dạng. - Thể hiện ở nội dung nghị luận: Những vấn đề tư tưởng, đạo lí hết sức phong phú, đa dạng.Vì vậy cần tránh học tủ, đoán “mò” nội dung nghị luận. Điều quan trọng là phải nắm được kĩ năng làm bài. - Thể hiện trong dạng thức đề thi: Có đề thể hiện rõ yêu cầu nghị luận, có đề chỉ đưa ra yêu cầu nghị luận mà không đưa ra một yêu cầu cụ thể nào. Có đề nêu trực tiếp vấn đề nghị luận, có đề gián tiếp đưa ra vấn đề nghị luận qua một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện - Chú ý các bước cơ bản của bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Đây cũng là trình tự thể hiện hệ thống lập luận trong bài viết. Học sinh cần tranh thủ những hướng dẫn quan trọng trong sách giáo khoa để nắm chắc kĩ năng làm bài như ở trên. 1.Mở bài: - Dẫn dắt vấn đề. - Nêu vấn đề. 2.Thân bài: - Giải thích vấn đề (nghĩa đen, nghĩa bóng; từ ngữ trọng tâm ) - biểu hiện - tại sao? - phê phán - Mở rộng vấn đề. - Hướng hành động 3.Kết bài: - Giá trị đạo lí đối với đời sống của mỗi con người. - Bài học hành động cho mọi người, bản thân. Đồng thời giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đối với hai dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí thường gặp. + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp. + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách gián tiếp. * Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp. Những lưu ý về cách làm bài. - Cách làm bài dạng đề này về cơ bản giống với cách nói trên. Ví dụ khi gặp đề bài “Bàn luận về lòng yêu nước”, để đáp ứng được yêu cầu của đề, học sinh trước hết - 12 -
  13. phải giải thích khái niệm “Lòng yêu nước”, nêu và phân tích những biểu hiện của “Lòng yêu nước”; ý nghĩa, vai trò của “Lòng yêu nước”đối với đời sống của mỗi con người, mỗi dân tộc, đồng thời phê phán những biểu hiện đi ngược lại với “Lòng yêu nước”, rút ra bài học về nhận thức và hành động cho bản thân. *Ví dụ minh hoạ: Đề bài : Viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ về đức hy sinh. Đề bài yêu cầu học sinh viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của bản thân về đức hy sinh. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (Về một vấn đề tư tưởng, đạo lý) đã khá quen thuộc với học sinh. Dù vậy, giáo viên cần hướng dẫn các em đáp ứng được các yêu cầu sau : * Trình bày bài viết đúng với yêu cầu của đề; không quá một trang giấy thi. * Có thể diễn đạt theo nhiều cách, song cần đảm bảo bố cục sau: 1.Mở bài: Giới thiệu được đức hy sinh và nêu khái quát đặc điểm vai trò của đức hy sinh. 2.Thân bài. - Giải thích sơ lược, nêu biểu hiện của đức hy sinh : Là những suy nghĩ, hành động vì người khác, vì cộng đồng. Người có đức hy sinh không chỉ có tấm lòng nhân ái mà còn là người biết đặt quyền lợi của người khác, của cộng đồng lên quyền lợi của bản thân mình - Khẳng định : Đức hy sinh là tình cảm cao đẹp, là phẩm chất đáng quý của con người. Người có đức hy sinh luôn được mọi người yêu mến, trân trọng. - Mở rộng - liên hệ thực tế để thấy: Có nhiều tấm gương giàu đức hy sinh, quên mình vì người khác, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. (Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những người có đức hy sinh - Bác Hồ chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người hy sinh quên mình vì nhân dân, vì dân tộc). Tuy nhiên trong cuộc sống cũng còn một số người có lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân mình 3.Kết bài: - Đức hy sinh từ lâu đã trở thành tình cảm có tính truyền thống đạo lý của con người, dân tộc Việt Nam Mỗi người cần ý thức được điều này để góp phần làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn. * Dạng đề trong đó tư tưởng, đạo lí được nói tới một cách gián tiếp Những lưu ý về cách làm bài : - Ở dạng này vấn đề tư tưởng, đạo lí được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện, một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách giáo khoa, trên báo chí, trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta, bài học cuộc đời, hạnh phúc ở quanh ta ”. Chính vì thế giáo viên cần hướng cho học sinh biết đọc tham khảo, kể cho các em nghe những câu chuyện có liên quan, có nội dung thiết thực với các em hàng ngày. - Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện trong những câu danh ngôn, tục ngữ, thành ngữ , ý nghĩa ẩn dụ, triết lí sâu sắc của những câu - 13 -
  14. chuyện, văn bản ngắn.Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn bạc, cần chú ý : + Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói (Nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ ) + Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (Nêu đề bài có dẫn chứng câu chuyện, văn bản ngắn). - Thông thường khi làm bài, học sinh chỉ chú ý đến tính chất đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận mà ít chú ý thao tác bổ sung, bác bỏ Những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của vấn đề hoặc trái ngược với vấn đề cần quan tâm. Chẳng hạn khi suy nghĩ về tình cảm người mẹ qua câu thơ : “Dẫu con đi hết cuộc đời Cũng không đi hết những lời mẹ ru” (Nguyễn Duy) Ngoài khẳng địng về tình mẫu tử thiêng liêng, ta còn bắt gặp đâu đó những người mẹ còn bỏ rơi con hoặc đánh đập con. Hay khi trình bày suy nghĩ của bản thân về câu nói : “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể”. Học sinh ngoài khẳng định tính chất đúng đắn của lời khuyên (sống thực tế, biết bằng lòng với hiện tại, với những gì mình có ), cần phải hiểu được tầm quan trọng của những khát vọng, ước mơ đối với mỗi con người trong cuộc sống. - Một điều nữa cần lưu ý là không được sa vào phân tích câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản như một bài nghị luận văn học. Ví dụ: Ví dụ1: Nghị luận một vấn đề trực tiếp. “Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” (Nguyễn Duy). Từ ý thơ trên, hãy viết một bài nghị luận xã hội (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ. * Về hình thức : Đảm bảo bài văn bố cục 3 phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. * Về nội dung : - Nêu ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Duy “Lời mẹ ru” biểu tượng cho tình yêu thương vô bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “không đi hết”. Khẳng định tình mẹ là vô cùng thiêng liêng cao cả và bất tử, là bao la vô tận không sao có thể đền đáp được Từ đó khẳng định: Tấm lòng của mẹ thật bao la, lớn lao. - Biểu hiện, bàn về tấm lòng của mẹ: + Ban cho con hình hài, muốn con khôn lớn, khoẻ mạnh về vóc dáng, bằng sự chăm sóc ân cần, chu đáo. + Là người dạy con từ những kĩ năng sống đến đạo lí làm người. + Là vị quan toà đầy lương tâm, trách nhiệm, chỉ bảo phân tích xác đáng những sai trái, lỗi lầm. + Là bến đỗ bình yên đón đợi con sau những dông bão cuộc đời. + Là bệ phóng xây dựng niềm tin, khát vọng để con bay cao, bay xa (lấy dẫn chứng). -Ý nghĩa :Tình yêu và đức hy sinh của mẹ là sức mạnh để giúp con vượt lên khó khăn trong cuộc sống, giúp con sống tốt hơn. - 14 -
  15. - Tuy nhiên trong thực tế, có những người mẹ thể hiện tình thương con không đúng cách (nuông chiều, giấu đi cái xấu, lỗi lầm ), hay có những người mẹ vô trách nhiệm (bỏ rơi, đánh đập con ), những người mẹ ấy đáng bị phê phán. - Bài học về nhận thức và hành động : Liên hệ bản thân, cảm nhận sâu sắc tấm lòng người mẹ với con cái, tình cảm của con với cha mẹ. 4, Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội. Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc khá khó khăn đối với học sinh. Để giúp các em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh nghiệm trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội. - Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về một sự việc nào đó. - Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu. - Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của con người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái ). 5, Giáo viên cần có những bài văn mẫu để đọc cho học sinh tham khảo. Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên đọc một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức, cách viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu được chọn phải thực sự xúc động để lay động được tâm hồn đồng thời khơi gợi được chất văn trong các em. Ví dụ: Viết một bài văn ngắn bàn về vấn đề: Những con người không chịu thua số phận. Bài mẫu. “Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu” M.Gorki đã từng nói như thế và điều đó thực sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những con người không chịu thua số phận như thầy Nguyễn Ngọc Ký, anh Trần Văn Thước, Nguyễn Công Hùng Trước hết ta phải hiểu thế nào là “không chịu thua số phận”. Đó là những người không chấp nhận mình mãi là tàn phế, vô dụng, không học tập, không đóng góp gì cho xã hội. Không mấy người Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Ký đã liệt cả hai tay đã kiên trì luện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ. Anh Trần Văn Thước : bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đâu khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế. - 15 -
  16. Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên-huyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo. Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt qua bệnh tật và khẳng định được bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống tinh thần mạnh mẽ của họ. Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác. Đó chính là sự động viên, khích lệ, giúp đỡ của bạn bè, của người thân, là khát khao không muốn người thân của mình đau khổ, thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam. Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghị lực, khát vọng và ý chí của mình khiến em vô cùng khâm phục. Chính những tấm gương về họ đã xây đắp những ước mơ, hoài bão, trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình. Những người không chịu thua số phận những con người tàn mà không phế thực sự là những tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em, khích lệ bản thân mỗi người cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những người con có ích cho xã hội. Chương III: HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 2018- 2019 để hướng dẫn cho học sinh làm bài Nghị luận xã hội. Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài văn nghị luận xã hội của học sinh mà lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây các em đã làm bài đúng hướng, bám sát vào thực tế đời sống cũng biết rút ra những bài học cho bản thân mình. Các em đã hiểu bản chất của kiểu văn này, không thấy khó và viết văn không bị khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc sống đời thường để đưa vào bài ; nhiều bài đã có sức hút và lay động được người đọc. Đặc biệt các em đã biết phân biệt hai kiểu bài nghị luận xã hội: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Cũng nhờ áp dụng đề tài này mà trong năm học 2018-2019 chất lượng của các bài thi về dạng bài này được nâng lên rõ rệt. Cụ thể là : Lớp Số HS không biết Số HS biết cách làm Số HS làm bài tốt Sĩ cách làm bài (1- bài ở mức trung bình- (8-9 điểm) số >4điểm khá (5->7điểm) SL % SL % SL % 95 39 4 10.3 27 64 8 20.5 - 16 -
  17. CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Để rèn luyện học sinh làm bài nghị luận xã hội tốt, tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp cụ thể như trên, với mong muốn giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để thành công trong cuộc sống và biết cách bảo vệ môi trường sống xung quanh Kinh nghiệm mà tôi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua nhiều năm giảng dạy. Hy vọng nó sẽ gỡ bí cho một số học sinh hiện nay và gợi thêm một cách dạy cho giáo viên. Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy tôi đã thấy được việc rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9, giáo viên cần phải : - Căn thời gian phân chia nôi dung kiến thức theo chủ đề và hướng dẫn rèn luyện cho học sinh cách làm bài cụ thể, phù hợp với đối tượng học sinh. - Khi dạy phải giúp học sinh nắm chắc dạng bài này, đồng thời cần hướng dẫn kĩ cho học sinh kĩ năng diễn đạt tốt các luận điểm, kĩ năng chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các phần, các đoạn trong bài, sử dụng các dẫn chứng phù hợp. - Cần phân biệt được giữa nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí. - Cung cấp, đồng thời hướng dẫn cho học sinh tìm dẫn chứng cụ thể và tham khảo một số bài văn mẫu. - Đặc biệt vào giai đoạn ôn luyện cho các kì thi, giáo viên nên có thao tác hệ thống bài tập và rèn luyện hai dạng cụ thể cho học sinh rèn thành thạo kĩ năng và vững kiến thức. Đề tài này chỉ là do bản thân học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua giảng và có sự tham khảo thêm từ bên ngoài, nên chắc chắn cũng không tránh khỏi những sai sót. Rất mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để việc dạy học của tôi và tất cả chúng ta có hiệu quả tốt hơn. 2. Đề xuất: Hàng năm phòng nên giao chỉ tiêu về các trường ra hệ thống đề về kiểu bài nghị luận xã hội. Ngân hàng đề được phòng lưu trữ để các trường có thể tham khảo qua mạng. Nhà trường cần mua thêm sách tham khảo nghị luận xã hội. Xác nhận của Hiệu trưởng Vũng Tàu, ngày 28/8/2019 Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm do mình viết, không sao chép của người khác. Người viết SKKN Dương Ngọc Hà - 17 -
  18. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9 - Tập 2. 2. Các dạng bài nghị luận xã hội. 3. Kiến thức chuẩn môn Ngữ văn THCS. 4. Phương pháp dạy học văn. 5. Tạp chí văn học tuổi trẻ. 6. Nâng cao Ngữ văn 9 7. Phương pháp dạy học văn nghị luận ở trường phổ thông 8. Rèn kĩ năng làm văn nghị luận - 18 -