Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động khám phá cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non - Năm học 2015-2016
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động khám phá cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non - Năm học 2015-2016", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_v.docx
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động khám phá cho trẻ 5-6 tuổi trong trường mầm non - Năm học 2015-2016
- Mã SKKN: . SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON” Lĩnh vực: Giáo dục mẫu giáo Cấp học: Mầm non Năm học 2015 - 2016 1/29
- MỤC LỤC Thứ tự Tên mục Số trang 1 - Phần 1: Ðặt vấn đề (Lý do chọn đề tài) 4 1. Cơ sở khoa học của vấn ðề. 4 2. Mục đích viết sáng kiến. 5 3. Ðối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 5 4. Phương pháp nghiên cứu 5 2 - Phần 2: Qúa trình triển khai thực hiện (Nội dung 6 sáng kiến kinh nghiệm) 3 I. Những ưu điểm và bất cập khi thực hiện vấn đề 6 nghiên cứu. Nguyên nhân của vấn đề đó 4 II. Biện Pháp giải quyết vấn đề nghiên cứu 7 * Biện pháp 1: Phương pháp dạy học nhóm 8 * Biện pháp 2: Phương pháp trò chơi, thực hành trải nghiệm. 12 * Biện pháp 3: Phương pháp đàm thoại và phương pháp kích não (Ðộng não). 19 * Biện pháp 4: Phương pháp giải quyết vấn đề. 20 * Biện pháp 5: Tích hợp hoạt động khám phá thông 21 qua các bộ môn và các hoạt động. 5 III. Kết quả thực hiện 25 6 - Phần 3: Kết luận và khuyến nghị. 27 7 - Tài liệu tham khảo 29 2/29
- DANH MỤC VIẾT TẮT - SKKN - Sáng kiến kinh nghiệm - BGH - Ban giám hiệu - MN - Mầm non - PPDH - Phương pháp dạy học - CNTT - Công nghệ thông tin - GDMN - Giáo dục mầm non - HÐKP - Hoạt động khám phá - GV - Giáo viên - HÐNT - Hoạt động ngoài trời - GQVÐ - Giải quyết vấn đề - SGK - Sách giáo khoa - HS - Học sinh 3/29
- PHẦN 1: ÐẶT VẤN ÐỀ 1. Cơ sở khoa học của vấn đề a. Cơ sở lý luận Hoạt động khám phá (HÐKP) là tìm tòi, phát hiện những điều mới ẩn chứa bên trong sự vật, hiện tượng đối với trẻ. Chúng ta dạy trẻ phát hiện và tìm ra điều mới, điều bí ẩn đó. Tổ chức HÐKP phù hợp sẽ giúp trẻ tìm ra cái mới, tiếp cận với những tri thức tiền khoa học, tích cực hoạt động nhận thức. Ðặc biệt là hình thành thái độ nhận thức và kĩ năng nhận thức cho trẻ đó là một nhiệm vụ của giáo dục mầm non (GDMN) nhằm hình thành nền tảng cho việc học tập của trẻ trong tương lai. Sự phát triển của trẻ về trí tuệ và sự gia tăng về khối lượng tri thức, sự phong phú đa dạng của các nhu cầu trong việc nuôi dạy và chăm sóc trẻ. Ðặc biệt nhu cầu nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi rất lớn. Trẻ luôn muốn biết mọi thứ và thường đặt ra các câu hỏi để tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh. Tổ chức hoạt động khám phá trong trường mầm non nhằm phát triển nhận thức của trẻ đã trở thành một nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non của nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Ðồng thời qua tìm hiểu về phương pháp dạy học tôi thấy, phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC) là dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa cô và trẻ. Nếu cô chỉ thuyết trình, có gì nói nấy thì những gì cô giảng chỉ là kiến thức một chiều. Có thể trẻ đã biết những kiến thức ấy. Như vậy, khi sử dụng PPDHTC giáo viên sẽ đúc rút được nhiều kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Mối quan hệ cô và trẻ sẽ trở nên gần gũi, tốt đẹp qua việc giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung bài học và cuộc sống xung quanh. Khi giáo viên dạy học bằng phương pháp giảng dạy tích cực, trẻ có cảm giác được học chứ không bị học. Các con được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy cô mà còn từ chính các bạn trong lớp. Trẻ vui mừng khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà trẻ ghi nhớ sâu kiến thức và tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều. b. Cơ sở thực tiễn: Tuy nhiên, trong thực tế phương pháp dạy học tích cực rất hạn chế trong quá trình dạy học, bởi phương pháp dạy học truyền thống đã bị ăn sâu vào tiềm thức của mỗi chúng ta. Từ nhiều năm nay, việc dạy học các môn học nói chung và hoạt động khám phá nói riêng đều được thực hiện theo phương pháp truyền 4/29
- thống, giáo viên giảng bài truyền thụ đến học sinh, học sinh tiếp thu thụ động kiến thức ấy. Cứ như thế thành một chu kì khép kín. Phương pháp dạy học này có những ưu điểm riêng không thể phủ nhận được. Tuy nhiên trong môi trường giáo dục ngày nay phương pháp truyền thống ấy cũng bộc lộ không ít nhược điểm như: Học sinh thụ động, chỉ biết tiếp nhận một chiều chứ không tự nghiên cứu, tìm hiểu. Như thế, hậu quả khó tránh khỏi là học sinh dần dần mất đi năng lực tư duy mà chỉ chấp nhận và sao chép lại cảm thụ của giáo viên; Giáo viên chỉ thuyết giảng, thỉnh thoảng lại đặt vào câu hỏi chiếu lệ sẽ không thể nắm bắt được hiệu quả tiếp thu cũng như quan điểm, thái độ của học sinh. Học mang tính chủ quan của giáo viên không có sự phản hồi từ học sinh sẽ dễ trở thành khiên cưỡng áp đặt, vì không có sự tương tác qua lại giữa cô và trẻ nên dần trở nên buồn tẻ, nặng nề không hứng thú. do vậy hiệu quả của việc dạy và học chưa cao. Mặt khác vào những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Ðào tạo đã yêu cầu các cơ sở giáo dục và đào tạo chuyển đổi theo hướng giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm. Ðây là một phương pháp giảng dạy mới làm người học có khả năng tự học và giúp thời gian trên lớp được sử dụng có hiệu quả hơn. Trước thực trạng đó tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong công tác giáo dục trẻ nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ và tạo ra môi trường học tập tốt nhất. Vậy tôi đã nghiên cứu kinh nghiệm “Sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động khám phá cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non”. 2. Mục đích viết sáng kiến: Cải tiến phương pháp dạy và học trong trường mầm non thông qua kinh nghiệm “Sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động khám phá cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non” 3. Ðối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: * Ðối tượng nghiên cứu là: 36 trẻ 5 tuổi của lớp A2 * Phạm vi nghiên cứu: Năm học 2015 - 2016 * Áp dụng cho giáo viên mầm non khi cho trẻ hoạt động khám phá 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp dạy học nhóm. - Phương pháp trò chơi. - Thực hành, trải nghiệm. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp kích não (động não) - Phương pháp giải quyết vấn đề. - Phương pháp tích hợp. 5/29
- PHẦN 2: QÚA TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN I. Những ưu điểm và bất cập khi thực hiện vấn đề nghiên cứu. Nguyên nhân của vấn đề đó 1. Thuận lợi: - Ðược sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu và đồng nghiệp trong trường, phòng lớp rộng, thoáng mát. - Ðược sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh. - Giáo viên đã có thâm niên nhiều năm công tác vì vậy cũng đã có một số kinh nghiệm trong việc thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ - Là một giáo viên nhiệt tình trong công việc, có lòng say mê tìm tòi sáng tạo, thường xuyên trau rồi những kiến thức về hoạt động khám phá, hết lòng thương yêu trẻ. - Đồ dùng phục vụ cho hoạt động khám phá theo thông tư đầy đủ. 2.Khó khăn: - Phương tiện cho trẻ trải nghiệm chưa phong phú, đa dạng. - Cô và trẻ chưa quen với phương pháp dạy và học mới 3. Số liệu cụ thể khi chưa thực hiện: * Khảo sát chất lượng của hoạt động khám phá của trẻ trong lớp cụ thể như sau: Số Kết quả Nội dung lượng Trẻ đạt % Hứng thú tham gia HÐKP 25 69,5% Khả năng phát triển ngôn ngữ 23 63,9% mạch lạc Khả năng quan sát, mô tả, phân 20 55,6% tích 36 Khả năng phân loại, phân nhóm 22 61% trẻ Khả năng so sánh 20 55,6% Khả năng suy luận, phán đoán 12 33,3% Thao tác thử nghiệm 15 41,7% Khả năng thảo luận nhóm 12 33,3% 6/29
- BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỐ LIỆU KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU NĂM 25 20 15 10 5 0 Hứng Ngôn Quan Phân So sánh Suy luận Thử Thảo thú ngữ sát loại nghiệm luận II: Biện Pháp giải quyết vấn đề nghiên cứu. Theo lời dạy của Bác “Ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”. Hiểu lời Bác nói bản thân tôi luôn luôn tự tìm hiểu và nghiên cứu về chuyên môn để tìm ra những nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức HÐKP có nhiều sáng tạo nhằm đạt được kết quả cao trong giờ học của cô và trẻ. - Về cách lựa chọn nội dung giáo dục: Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính đồng tâm, phù hợp độ tuổi, đảm bảo từ dễ đến khó. Nội dung từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV, các tài liệu khoa học phù hợp, thí nghiệm, bảng tàng, thực tế : Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu cầu của HS. Tình huống thực tế, bối cảnh và môi trường địa phương, những vấn đề học sinh quan tâm. - Hình thức tổ chức: Cơ động, linh hoạt, học ở lớp, ở phòng thí nghiệm, ở hiện trường, trong thực tế , học cá nhân, học đôi bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với giáo viên. - Cách xác định mục đích, yêu cầu: cần xác định rõ ràng về kiến thức, kỹ năng, thái độ sao cho phù hợp trọng tâm bài và nhận thức của trẻ. - Ðiều kiện áp dụng phương pháp dạy học tích cực: Ðó là giáo viên, học sinh, Các đồ dùng phương tiện sử dụng trong HÐKP, tài liêu, - Việc nhận xét, đánh giá trẻ cũng là vần đề quan trọng, đánh giá để giúp trẻ có hướng phát triển tích cực chính vì thế việc đánh giá không nên dùng các từ mang tính chất qua loa, không có nghĩa như: “Hôm nay các con học đều 7/29
- ngoan, đều giỏi?” mà nên hỏi: “Hôm nay các con cảm nhận được gì?”, “Ðiều gì con thích nhất?”, “Các con làm được điều gì?”, “Học được điều gì?” - Về phương pháp tổ chức HÐKP theo hướng tích cực. Bản chất căn bản của phương pháp dạy học tích cực chính là tìm mọi cách giúp trẻ chủ động trong việc học, được khám phá tiềm năng của chính mình. Tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Sau đây là một số phương pháp dạy học tích cực tôi đã sử dụng song song và đồng bộ trong hoạt động khám phá. Biện pháp 1: Phương pháp dạy học nhóm Dạy học nhóm là cách dạy trong đó trẻ được đặt vào môi trường học tập tích cực. Trong đó trẻ được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của trẻ. Khi thực hiện dạy học nhóm giáo viên cần chú ý những điểm sau: + Có rất nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. + Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau, hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. + Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới. Phương pháp học nhóm của trẻ thường được tổ chức theo một quy trình như sau: Giới thiệu đề tài hoặc trò chơi ôn luyện. Thành lập nhóm (Chia nhóm) . Xác định nhiệm vụ các nhóm (Cách chơi) ->. Sau đó trẻ về nhóm và lập kế hoạch làm việc. Thoả thuận quy tắc làm việc. Tiến hành giải quyết các nhiệm vụ. Chuẩn bị báo cáo kết quả. -> Trình bày kết quả, đánh giá (Các nhóm trình bày kết quả) -> Giáo viên đánh giá kết quả và chốt kiến thức. Trước khi thực hiện phương pháp học nhóm cho trẻ hàng loạt các câu hỏi được đặt ra với tôi dùng cho việc dạy học nhóm như: Ðề tài này có hợp với dạy học nhóm không? Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống hay khác nhau? Trẻ có quen với phương pháp học này không? Trẻ đã có đủ kiến thức điều kiện cho công việc nhóm chưa? Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm nhý thế nào? Cần chia nhóm theo tiêu chí nào? Cần tổ chức môi trường lớp nhý thế nào? những câu hỏi đấy luôn luôn xuất hiện trong tâm trí tôi nhưng với sự đam mê 8/29
- muốn tìm tòi khám phá, muốn được trải nghiệm về phương pháp học nhóm này vì thế tuy thấy khó khăn nhưng cũng không làm tôi lùi suy nghĩ và nghiên cứu. Kết quả cho thấy với phương pháp tổ chức học nhóm trẻ hứng thú học hơn, đoàn kết và biết chia sẻ với nhau trong học tập, mỗi trẻ đưa ra một ý kiến giúp trẻ có vốn kiến thức phong phú hơn, trẻ tự thảo luận lại thêm nhớ lâu hơn. Dưới đây là một số ví dụ tôi đã thực hiện tổ chức học nhóm cho trẻ trong tiết. Ví dụ 1: Trong chủ đề thực vật đề tài khám phá 1 số loại quả “quả Thanh Long, quả Măng Cụt - Tôi chia lớp thành 4 nhóm (4 tổ). Mỗi nhóm nhận 1 quả, trong đó có 2 nhóm trùng quả, các nhóm mang quả về cùng quan sát và nhận xét về quả đó. - Các nhóm ngồi thành 4 vòng tròn và thảo luận Trẻ quan sát thảo luận nhóm quả thanh Long nhóm trong thời gian 5 phút (Trẻ về quan sát, sờ, ngửi, nếm ) - Sau thời gian làm việc nhóm, cô mời các nhóm báo cáo kết quả. Cô là người tổng hợp vảo bảng kết quả cô đã chuẩn bị, sau đó cô chốt kiến thức. Khám phá bên trong của Thanh Long 9/29
- - Từ bảng đánh giá kết quả đó cô cho trẻ so sánh điểm giống và khác nhau giữa 2 quả BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ CÁC NHÓM Qủa Đặc Tổ 1 Tổ 2 Tổ 3 Tổ 4 điểm đỏ tím Nhiều Nhiều hạt nhỏ hạt hạt Hình tròn Nhẵn Ngọt ngọt Thơm 10/29
- Ví dụ 2: Hay ở chủ đề nước và các hiện tượng tự nhiên với đề tài “sự kỳ diệu của nước“ tôi cho trẻ trải nghiệm với nước bằng các thí nghiệm khác nhau - Tôi chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm làm một thí nghiệm khác nhau: nhóm 1 pha nước cam, Thí nghiệm pha nước cam nhóm 2 pha muối, nhóm 3 pha đường. Sau 1 thời gian các nhóm đưa ra nhận xét về cốc nước của nhóm mình (báo cáo kết quả thí nghiệm của mình), cô tổng hợp nhận xét các ý kiến đó qua bảng tổng hợp và hỏi trẻ vì sao các nhóm lại có kết quả không giống nhau? Tại sao nước lại thay đổi như vậy và chốt về nước: “Nước là một loại chất lỏng không màu, không mùi và không vị tuy nhiên trong thực tế chúng ta thấy nước có vị chua, ngọt, mặn hay có mùi và có nhiều màu sắc khác nhau đó là do nước bị tác động của con người làm thay đổi (Biến dạng) tính chất của nước” BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ CÁC NHÓM Tổ 1 Tổ 2 Tổ 3 Pha nước cam Pha nước muối Pha đường màu cam ngọt, chua mặn ngọt thơm 11/29
- Ví dụ 3: Trò chơi “Đố vui” Trong chủ đề phương tiện và quy định giao thông, tôi tổ chức trò chơi “Đố vui” tôi chia trẻ thành 4 nhóm, các nhóm cùng lắng nghe câu đố về phương tiện giao thông và biển báo giao thông, sau thời gian cô quy định các đội dành quyền trả lời bằng cách nhấn chuông, cô đưa đáp án ra bằng hình ảnh trên màn hình. Biện pháp 2: Phương pháp trò chơi, thực hành trải nghiệm * Phương pháp trò chơi: Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho trẻ tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Trong giáo dục mầm non đây là phương pháp dạy học hiệu quả và phù hợp nhất bởi đặc điểm của trẻ mầm non là “Học mà chơi, chơi mà học” hơn nữa bản chất của việc sử dụng trò chơi học tập là để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Nhưng trong thực tế dạy học, chúng ta thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần thiết nhằm tạo hứng thú học tập cho trẻ ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Dưới sự hướng dẫn của GV, trẻ được hoạt động bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi là chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật chơi và cách chơi thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá. Khi tổ chức trò chơi giáo viên cần chú ý những điểm sau: - Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với bài học, với nhận thức của trẻ, với thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho trẻ. - Trẻ phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi. - Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi. - Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. - Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho trẻ. - Sau khi chơi, giáo viên cần cho trẻ thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi. 12/29
- Thông thường thì phương pháp tổ chức trò chơi thường được tiến hành theo quy trình sau: GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi -> Chơi thử (Nếu cần thiết) -> Trẻ tiến hành chơi -> Đánh giá sau trò chơi -> Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi. Ví dụ : Trò chơi 1: Khoanh tròn quả không cùng loại (Chơi theo nhóm hoặc cá nhân mỗi trẻ một phiếu bài tập) + Mục đích: Rèn luyện óc quan sát, sự nhanh nhạy của trẻ, Phát triển khả năng khái quát đơn giản và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. + Chuẩn bị: Tranh vẽ một số loại rau (Qủa, hoa) + Cách chơi: Cô cho mỗi trẻ một phiếu bài tập dùng bút khoanh tròn vào đối tượng không cùng loại với các đối tượng kia hoặc cả nhóm một tranh khổ lớn mỗi nhóm 1 tranh trẻ cùng thảo luận và khoanh vào đối tượng không cùng loại, kết thúc trò chơi cô kiểm tra và cho trẻ giải thích tại Phiếu bài tập- Khoanh vào đối tượng sao lại khoanh tròn vào đối tượng đó. không cùng loại Trò chơi 2: Xếp theo thứ tự + Mục đích: Củng cố hiểu biết của trẻ về quá trình chăm sóc và phát triển của cây, củng cố biểu tượng về số và phép đếm. Phát triển ở trẻ khả năng phán đoán, trí tưởng tượng sáng tạo, phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Giáo dục trẻ tình cảm xã hội. + Chuẩn bị: Mỗi đội có 1 bộ tranh nói về quá trình phát triển của các loại cây và chăm sóc cây. Bộ chữ số từ 1 -> 6. Bảng gài gắn xung quanh lớp + Cách chơi: 13/29
- - Cách 1: Cô để các bức tranh vào trong 1 cái rổ sau đó yêu cầu trẻ xếp các bức tranh theo trình tự phát triển của cây. (Gắn lên bẳng) tìm số và gắn tương ứng theo thứ tự của từng tranh. Cô mời đại diện các đội nói về sự phát triển của cây mà đội mình vừa thực hiện. - Cách 2: Nâng cao độ khó của trò chơi, sau khi cho trẻ chơi xếp theo thứ tự cô tiếp tục cho trẻ chơi trò chơi “Thi xem ai đoán giỏi” sau những Trò chơi: xếp theo thứ tự bức tranh này, cô có bức tranh khác nữa, các con cùng đoán xem cô có bức tranh gì? Trẻ tự đoán nhưng không cho bạn biết, Cô phát cho mỗi trẻ một tờ giấy để trẻ vẽ về đáp án của mình, khi trẻ vẽ xong cô cho trẻ chia sẻ ý tưởng với nhau, cô đưa ra bức tranh của cô “Tranh vẽ mang quả biếu bà” “Tranh rửa, gọt quả” và tiếp tục cho trẻ thi kể chuyện dựa vào những bức tranh đã xếp theo thứ tự. Trò chơi 3: Tìm dụng cụ nghề + Mục đích: Ôn luyện củng cố về một số nghề. Trẻ hiểu biết về nghề, biết dụng cụ của nghề. + Chuẩn bị: Mỗi trẻ một phiếu bài tập tranh vẽ về nghề và các dụng cụ của các nghề. Bút chì, bàn kê theo nhóm. Phiếu bài tập nối dụng cụ với nghề + Cách chơi: Trẻ về nhóm bàn ngồi dùng bút tìm và nối dụng cụ của 14/29
- nghề với nghề có trong phiếu bài tập đó. Kết thúc cô cho trẻ đối chiếu với bài của cô trên màn hình. Các trò chơi luôn được sử dụng có hiệu quả trong tiết học. Với tôi trò chơi luôn được làm mới cả về nội dung chơi, hình thức chơi và phương tiện chơi. Ví dụ: Cùng là trò chơi: “Khoanh tròn vào đối tượng khác dấu hiệu nhưng” với một số loại rau tôi cho trẻ chơi theo nhóm hình thức chơi động nhưng ở 1 số loại quả tôi lại cho trẻ chơi tĩnh, cá nhân mỗi trẻ 1 phiếu bài tập Thay vì khoanh tròn hoặc gạch bỏ ở 1 số loại hoa tôi lại cho trẻ chơi loại bỏ những loại hoa không cùng dấu hiệu bằng cách sử dụng lô tô gắn nhám Đặc biệt trong quá trình tổ chức tôi luôn lấy trẻ làm trung tâm. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi. Trẻ được nói như thảo luận nội dung chơi, đưa ra đáp án, đánh giá lẫn nhau sau khi chơi đồng thời 100% trẻ được tham gia nội dung chơi. Qua một số trò chơi tôi nhận thấy trẻ rất hăng say và tích cực tham gia vào hoạt động, tích cực trong việc thảo luận trong quá trình chơi, tích cực trong việc đánh giá kết quả chơi của bạn. Điều đó giúp trẻ tiếp thu kiến thức mới tốt hơn đồng thời giúp trẻ cảm giác học như chơi không mệt mỏi đó cung là động lực giúp tôi nghiên cứu và tìm kiếm thêm những trò chơi mới trong mỗi tiết học. * Phương pháp thực hành, trải nghiệm Nếu trò chơi mang lại nhiều niềm vui thì thí nghiệm lại mang tới cho trẻ nhiều ngạc nhiên và thú vị. Mặc dù những thí nghiệm với trẻ mẫu giáo rất còn đơn điệu nhưng tôi nhận thấy những gì trẻ được thực hành trải nghiệm hay nói cahcs khác trẻ được nhìn, được nghe, được làm sẽ là những kiến thức kỹ năng bền vững với trẻ. Từ những thí nghiệm trẻ được thực hành trên lớp giúp trẻ có nhiều kỹ năng quan sát trong cuộc sống bên ngoài và quan trọng là trẻ luôn ham thích đặt câu hỏi và tìm cách lí giải về sự vật, hiện tượng xung quanh. Những thí nghiệm có thể là hoạt động trong giờ học cũng có thể là trong hoạt động ngoài trời hay có thể trong hoạt động góc Dù hoạt động thí nghiệm được tổ chức ở hoạt động nào thì vai trò của người giáo viên lúc này rất quan trọng: + GV nghĩ ra được các hoạt động và tổ chức được cho trẻ trải nghiệm. + Khi trẻ trải nghiệm: trẻ trả lời câu hỏi của cô đúng hay sai không quan trọng. Cuối cùng cô mới là người kết luận. 15/29
- + Trong quá trình dạy khám phá cần tạo tình huống để trẻ phải sử dụng tối đa các giác quan để tìm tòi. + 1 tiết học có thể có 2- 3 trải nghiệm Trong 1 trải nghiệm thường được tổ chức theo các bước sau : Bước 1: Cho trẻ trải nghiệm (tạo tình huống để cho trẻ được sử dụng tối đa các giác quan) Bước 2: Cho trẻ nêu nhận xét, cảm nhận và lý giải, giải thích về nhận xét (Trẻ nói được hết những gì trong vốn kinh nghiệm trẻ biết) Bước 3: Thực chứng (Có thể làm thí nghiệm, trải nghiệm) trẻ lấy được đồ dùng theo nhận xét Bước 4: Suy ngẫm (Củng cố, nâng cao, đánh giá) Sau đây là một số thí nghiệm tôi đã cho trẻ thực hành trong quá trình trẻ hoạt động khám phá: Ví dụ: Thí nghiệm 1: Trứng chìm và trứng nổi + Mục đích: Cung cấp cho trẻ kiến thức khoa học gặp trong cuộc sống, trẻ hiểu vì sao trứng chìm và nổi. + Chuẩn bị: 2 cốc nước, 2 quả trứng, bát muối và thìa nhỏ + Cách tiến hành: Cho trẻ đem 2 quả trứng gà thả vào 2 ly nước lã thì trứng gà chìm xuống rất nhanh, đồng thời nước trong ly dâng lên cao và thể tích của nước dâng lên bằng thể tích của quả trứng. Sau đó cho muối vào một cốc khuấy đều lên thì quả trứng gà lại nổi lên. Cho trẻ thảo luận vì sao trứng chìm? Vì sao trứng nổi Sau đó cô giải thích cho trẻ: “Thông thường, vật thể có chìm trong nước hay không là do tỷ trọng của vật thể đó, tỷ Tầm quan trọng của không khí trọng của vật thể lớn hơn tỷ trọng của nước thì vật thể đó sẽ Thí nghiệm: Trứng chìm – trứng nổi 16/29
- chìm khi thả vào nước, còn nhẹ hơn nước thì vật thể đó sẽ không chìm. Điều đó cho thấy tỷ trọng của nước tinh khiết nhẹ hơn quả trứng nên trứng chìm còn Còn nước muối có tỷ trọng lớn hơn so với trứng gà nên trứng gà nổi trong nước muối. Thí nghiệm 2: Nước đã biến đi đâu + Mục đích: trẻ hiểu được đá là do nước tạo thành khi nhiệt độ rất thấp và khi nhiệt độ ấm lên đá tan thành nước. + Chuẩn bị: 1 cục đá, 2 cốc nước ấm, với nhiệt độ khoảng 40 độ c + Cách tiến hành: Cho trẻ quan sát cục đá trên Sự biến dạng của nước khay. Cho trẻ sờ tay vào thành cốc để cảm nhận độ nóng của cốc Cho đá vào 1 trong 2 cốc và cho trẻ quan sát hiện tượng sảy ra, đá tan và nhỏ dần, biến mất, cho trẻ sờ vào miệng 2 cốc và so sánh: cốc nào lạnh hơn, cốc nào đầy nước hơn? Vì sao? Thí nghiệm 3: Cây trồng bằng gì? (Cây xanh và môi trường sống) + Mục đích: giúp trẻ hiểu được ngoài cách trồng cây bằng hạt người ta còn trồng cây bằng cành, lá, củ. + Chuẩn bị: Bồn trồng cây, cây khoai lang, lá bỏng, hoa mười giờ, cành trạng Thí nghiệm cây trồng bằng thân, nguyên cành 17/29
- + Cách tiến hành: Cô tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “gieo hạt” sau đó cô hỏi trẻ ngoài cách trồng cây bằng hạt ra ta có thể trồng cây bằng cách nào? (Trẻ kể) Cô và trẻ làm thí nghiệm trồng cây bằng cành, lá và để xem điều gì sẽ sẩy ra với những cây này. Cô cho trẻ dự đoán về các hiện tượng có thể sảy ra. Hàng ngày cho trẻ chăm sóc tưới cây để xem sự thay đổi của cây như thế nào? Khi thí nghiệm kết thúc cô tró chuyện với trẻ về điều sảy ra và rút ra kết luận “Cây có thể trồng bằng hạt, bằng cành và lá tuy nhiên không phải cây nào cũng trồng được bằng cành và lá” Cô chỉ cho trẻ thấy mầm dễ mọc ra từ mắt của cành và mép của lá. Thí nghiệm 4: Cây hút nước như thế nào? + Mục đích: Giúp trẻ nhận biết được sự hút nước của cây + Chuẩn bị: Một lọ đựng nước trong và 1 lọ đựng nước pha màu, 2 cành hoa cúc trắng. + Cách tiến hành: Thí nghiệm: Cây hút nước như thế nào Cô cho trẻ quan sát cô cắm 2 cành hoa vào 2 châu nước và cho trẻ dự đoán xem hiện tượng gì sảy ra? Để biết chuyện gì sảy ra thì sau 3, 4 ngày nữa cô con mình cùng quan sát 2 cành hoa này. Sau khi thí nghiệm hoàn thiện cô cho trẻ quan sát và 18/29 Thí nghiệm cây hút nước
- nhận xét, cô chốt “Cây hoa cắm vào lọ nước màu thì hoa và gân lá chuyển màu vì cây hút nước, thân cây đã vận chuyển nước màu lên lá và hoa làm thay đổi màu lá hoa”. Biện pháp 3: Phương pháp đàm thoại và phương pháp kích não (động não) Đây là hai phương pháp dạy học tích cực, chúng có liên quan mật thiết với nhau trong quá trình dạy trẻ, khi sử dụng phương pháp kích não trẻ là ta phải sử dụng phương pháp đàm thoại, bởi câu hỏi đàm thoại trong phương pháp dạy trẻ tích cực giúp trẻ tư duy mạnh giúp trẻ phát triển trí não nhiều hơn. * Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra một hệ thống câu hỏi để trẻ trả lời, trao đổi với giáo viên và các bạn trong lớp. Qua đó trẻ lĩnh hội được nội dung bài học. Đàm thoại không phải là phương pháp dạy học mới tuy nhiên nếu ta sử dụng phù hợp sẽ phát huy được tính tích cực của trẻ. Đàm thoại giúp giáo viên hiểu và gần gũi với trẻ hơn. Đàm thoại tạo điều kiện cho trẻ củng cố và phát triển khả năng giao tiếp, gây hứng thú học tập, phát huy tính tích cực và tương tác của trẻ. Hiểu được tầm quan trọng của phương pháp đàm thoại trong mỗi hoạt động khám phá tôi thường nghiên cứu kỹ về các câu hỏi làm sao kích thích được sự tư duy của trẻ và câu hỏi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Trong quá trình đàm thoại tôi luôn khuyến khích động viên trẻ nhút nhát, rụt rè tham gia trả lời câu hỏi của cô, điều đó được thể hiện cả ở thái độ của cô về nét mặt, gióng nói nhẹ nhàng thân thiện với trẻ khi đưa ra câu hỏi. Ví dụ: + Chuyện gì sẽ sảy ra khi không có cây? + Tại sao lại có hiện tượng trời mưa? + Tại sao cổ hươu cao? * Phương pháp động não (Kích não): Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Các thành viên được tham gia một cách tích cực. Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận. 19/29
- Phương pháp động não thường được dùng để giới thiệu vào một chủ đề, sử dụng tìm ra phương án giải quyết vấn đề và thu thập các lựa chọn, suy nghĩ khác nhau. Trong quá trình dạy học tôi cũng chú tâm đến phương pháp động não giúp trẻ phát triển mạnh về tư duy. Đặc biệt là các câu hỏi dành cho trẻ trong quá trình dạy hoc. Tôi đưa vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm nhằm khích lệ trẻ phát biểu đưa ra các ý kiến càng nhiều càng tốt. sau đó tôi nhắc lại tất cả các ý kiến phát biểu. Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý. Cuối cùng tôi tổng hợp ý kiến của trẻ và rút ra kết luận. Biện pháp 4: Phương pháp giải quyết vấn đề Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ) là PPDH đặt ra trước trẻ các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển trẻ vào tình huống có vấn đề, kích thích trẻ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề. Để thực hiện phương pháp tôi cần xác định, nhận dạng vấn đề/tình huống; Thu thập thông tin có liên quan đến vấn đề/tình huống đặt ra. Liệt kê các cách giải quyết có thể có. Phân tích, đánh giá kết quả mỗi cách giải quyết (tích cực, hạn chế, cảm xúc, giá trị) sau đó cho trẻ tiến hành so sánh kết quả các vấn đề giải quyêt và lựa chọn cách giải quyết tốt nhất; - Thực hiện theo cách giải quyết đã lựa chọn; - Rút kinh nghiệm cho việc giải quyết những vấn đề, tình huống khác. Vi dụ 1: Trong HĐKP Bài Một sô quy định giao thông phổ biến tôi tạo một hoạt cảnh ngắn trước khi vào bài học “Câu chuyện chiếc mũ bảo hiểm” trong câu chuyện đặt ra cho trẻ một tình huống “Chương trình ngày hội giao thông ở rất xa nhưng các con không có mũ bảo hiểm làm thế nào để đến được với chương trình” -> Trẻ suy nghĩ và đưa ra hàng loạt cách giải quyết như: đi bằng máy bay không cần đội mũ bảo hiểm, đi bằng ô tô không cần đội mũ bảo hiểm, đi bộ không cần mũ bảo hiểm tôi đã phân tích từng cách giải quyêt và đưa ra cách giải quyết tốt nhất là đi bằng ô tô vì ô tô và giải thích cho trẻ vì nếu đi bộ đường xa mỏi chân và không kịp tới chương trình còn máy máy bay thi chi đi tới những nơi rất xa. Ví dụ 2: Khi cho trẻ khám phá “Thời tiết mùa hè” trước khi học tôi tạo một tình huống nhỏ “Ôi nóng thế! Làm thế nào để bớt nóng bây giờ?” trẻ dưa ra hàng loạt các ý kiến như: bật quạt, bật điều hòa, mở của sổ, đi rửa mặt Trong 20/29
- quá trình học tôi lại đưa ra một tình huống “Với thời tiết nắng nóng kéo dài thì chuyện gì sẽ sảy ra?” Trẻ đưa ra hàng loạt các câu trả lời khác nhau: Cháy rừng, khô cằn, hạn hán, thiếu nước, người ốm, mất điện, máy điều hòa tăng giá sau mỗi tình huống đó cô giúp trẻ chốt lại kiến thức một cách chính xác. Trong dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời sống xã hội, giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh. Hiểu được điều đó tôi thường xuyên tạo ra những tình huống có vấn đề nhằm kích thích trẻ tư duy và đưa ra nhiều cách giải quyết của riêng trẻ. Biện pháp 5: Tích hợp hoạt động khám phá thông qua các bộ môn và các hoạt động khác Hoạt động khám phá không chỉ được áp dụng trong tiết học mà ngay cả trong các bộ môn và các hoạt động khác đều mang lại hiệu quả tốt nếu ta biết tích hợp, lồng ghép một cách nhẹ nhàng phù hợp đó chính là 1 phương pháp dạy học tích cực cho trẻ. + Hoạt động học: là những hoạt động có chủ định nhằm cung cấp cho trẻ lượng kiến thức khác nhau trong mỗi hoạt động. Tuy nhiên thì ở hoạt động học nào cũng có lượng kiến thức được tích hợp các bộ môn, trong đó hoạt động khám phá cũng vậy nó có thể lồng ghép với các bộ môn khác như: Đối với hoạt động động tạo hình “Vẽ con gà trống” Khi quan sát đàm thoại về con gà trống là trẻ đã lĩnh hội được đặc điểm bên ngoài, các bộ phận của gà trống. Qua bài thơ “Bó hoa tặng cô” thông qua nội dung bài thơ cô dạy trẻ và cô giáo dục trẻ về ngày 8/3 là trẻ củng hiểu về ngày 8/3. Cũng như khi cho trẻ làm quen với toán, khi trẻ được tri giác về những đồ dùng học toán, đồ dùng càng phong phú thì càng tạo cho trẻ môi trường khám phá phong phú. Chính vì vậy tôi luôn thay đổi thưởng xuyên các đồ dùng trong mỗi chủ đề vừa giúp trẻ hứng thú học toán vừa tạo môi trường cho trẻ hoạt động khám phá. 21/29
- + Hoạt động ngoài trời: HĐNT là 1 hoạt động bổ trợ cho hoạt động khám phá rất tốt và hiệu quả, bởi khi giáo viên tổ chức HĐNT trẻ được quan sát nhận xét một đối tượng nào đó, chính lúc này trẻ đang tìm hiểu, tìm tòi phát hiện ra điều bí ẩn của đổi tượng, đây chinh là một nội dung của hoạt động khám phá. Chính vì vậy tôi rất quan tâm đến viêc lựa chọn nội dung cho trẻ HĐNT. Nội dung HĐNT càng phong phú thì vốn kiến thức của trẻ càng phong phú. Quan sát cây Kim Tiền - HĐNT Ví dụ: Khi ta cho trẻ quan sát cây “Kim tiền” Trẻ được ngắm, sờ và nêu ra nhận xét của mình về cây. Mỗi trẻ được đưa ra 1 ý kiến của mình về đặc điểm, lợi ích của cây và cô là người củng cố lại kiến thức cho trẻ. + Hoạt động góc: Hoạt động góc có thể coi là “Mảnh đất màu mỡ” để trẻ được tự do hoạt động, trải nghiệm và phát huy tính tích cực của trẻ. Góc khám phá là một góc không thể thiếu trong mỗi nhóm lớp, giáo viên là người giúp trẻ phát huy tính tích cực tìm tòi, khám phá phát hiện cái mới bằng cách tạo môi trường cho trẻ hoạt động thông qua các chủ đề. Môi trường càng phong phú thì trẻ hoạt động càng tích cực. Trong mỗi chủ đề khác nhau lại mang đến cho trẻ một lượng kiến thức khác nhau, Dưới đây là một số hình ảnh trẻ đã thực hiện trong HĐG của các chủ đề. Ví dụ: Trong chủ đề thực vật trẻ được thực hành sắp xếp về quá trình phát triển của cây từ hạt thông qua bộ tranh lô tô hay trẻ phân nhóm các loại rau qua các lô tô. 22/29
- Trong chủ đề động vật trẻ được nối các các bộ phận của con vật sao cho phù hợp, thông qua phiếu bài tập hay trẻ phân nhóm các con vật theo môi trường sống 23/29 HĐ góc – chủ đề thực vật
- Giờ hoạt động dạo thăm, dã ngoại: Hoạt động dạo thăm, dã ngoại là một hoạt động hấp dẫn với trẻ, trẻ được mở rộng kiến thức với thế giới bên ngoài, cũng bằng cách quan sát, ghí nhớ có chủ định và hoạt động thảo luận của cô và trẻ trong buổi dạo thăm, dã ngoại trẻ thu nhận được lượng kiến thức phong phú và nhớ lâu hơn. Vi dụ 1: Khi cho trẻ thăm quan “Chuồng trại chăn nuôi” trẻ trực tiếp được tri giác con lợn, đặc điểm bên ngoài của con lợn, tiếng kêu, vận động, thức ăn của lơn được nghe chủ chăn nuôi giới thiệu về mô hình chuồng trại sau đó cô và trẻ lại thảo luận về những nội dung vừa được dạo thăm, trẻ nhớ lại và mỗi trẻ một ý kiến, cô là người khắc sâu cho trẻ kiến thức. HĐ Dạo thăm: chuồng trại chăn nuôi Vi dụ 2: Trong chủ đề “Quê hương đất nước, Bác Hồ” tôi phối kết hợp với BGH nhà trường tổ chức cho trẻ buổi thăm quan học tập “Thăm Lăng Bác” Trẻ được tận mắt nhìn thấy Lăng Chủ Tịch, thấy Chùa Một Cột, Thấy bảo tàng Hồ Chí Minh, được tận mắt nhìn thấy Bác nằm, được ngắm cảnh vật quanh Lăng được biết về sự tôn nghiêm khi vào Lăng Bác Bằng cách quan sát trực tiếp đó trẻ vừa thấy vui, vừa nhận thức sâu sắc về Lăng Bác, Chùa một cột và trẻ nhớ lâu hơn, trẻ cảm nhận được sự thiêng liêng, lòng yêu quý của mình đối với Bác. 24/29
- HĐ Thăm quan học tập: Thăm Lăng Bác III. Kết quả thực hiện Qua một thời gian nghiên cứu, tôi tự nhận thấy việc áp dụng các biện pháp trên vào việc cho trẻ làm quen với toán và các hoạt động giáo dục trẻ nói chung, tôi thấy đã thu được kết quả đáng mừng như sau Đối với trẻ: Sô Đầu năm Cuối năm lượng Nội dung Trẻ Trẻ % % đạt đạt Hứng thú tham gia 25 69,5% 33 91,7% HĐKP Khả năng phát triển ngôn 23 63,9% 30 83,3% ngữ mạch lạc Khả năng quan sát, mô tả, 20 55,6% 28 77,8% phân tích 36 Khả năng phân loại, 22 61% 30 83,3% trẻ phân nhóm Khả năng so sánh 20 55,6% 31 86,1% Khả năng suy luận, phán 12 33,3% 26 72,2% đoán Thao tác thử nghiệm 15 41,7% 30 83,3% Khả năng thảo luận nhóm 12 33,3% 26 72,2% 25/29
- BIỂU ĐỒ SO SÁNH KÊT QUẢ CỦA TRẺ GIỮA ĐẦU NĂM VÀ CUỐI NĂM 35 30 25 20 15 10 5 0 Hứng thú Ngôn ngữ Quan sát Phân loại So sánh Suy luận thử nghiệm thảo luận tham gia Đầu năm Cuối năm * So với đầu năm Đối với trẻ: Qua biểu đồ so sánh đối chứng đầu năm và cuối năm tôi thấy kết quả đáng mừng ở tất cả các nội dung đặc biệt là thao tác thử nghiệm tăng: 41, 6%. Khả năng suy luận, phán đoán và khả năng thảo luận nhóm tăng là: 38.9%. Đối với đồ dùng: ta thấy rõ đồ dùng tự làm tăng lên rõ dệt như các loại đồ dùng cho trẻ làm thí nghiệm, tranh ảnh, vi deo, đồ dùng tự tạo như các loại phương tiện giao thông, cây hoa, dụng cụ các nghề Đối với giáo viên: Đã thu được một số kinh nghiệm như: Có kỹ năng sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, Có thêm nhiều trò chơi, nhiều thí nghiệm làm phong phú thêm phương tiện truyền tải kiến thức cho trẻ. PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 26/29
- * Kết luận: Từ những kết quả nghiên cứu trên tôi rút ra kết luận sau: nhóm các phương pháp dạy học tích cực giúp nâng cao chất lượng dạy và học. Khi áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Trẻ là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của giáo viên được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của người thầy sẽ tăng lên nhờ sử dụng phương pháp, bởi thầy cô phải đáp ứng các câu hỏi của trẻ. Thông qua HĐKP Nhằm phát triển trí tuệ, nhận thức và các mặt khác của nhân cách, góp phần quan trọng vào việc phát triển toàn diện của trẻ. Việc làm này không chỉ có ý nghĩa lớn nao đối với các nhà nghiên cứu mà đối với các trường Mầm non, đặc bịêt là các giáo viên Mần non cần nắm vững những phương pháp bộ môn. Vấn đề tiếp tục nghiên cứu: Thấy được tầm quan trọng của của việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực cho trẻ vào HĐKP. Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về các phương pháp trên, đặc biệt là phương pháp dạy học nhóm; Phương pháp trò chơi; Thực hành trải nghiệm; Phương pháp giải quyêt vấn để; Ngoài việc nghiên cứu và dạy học sử dụng PPDHTC trong HĐKP thì trong những năm tiếp theo tôi sẽ tiến hành nghiên cứu và sử dụng PPDHTC vào tất cả các môn và các hoạt động khác trong trường MN. Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. * Khả năng áp dụng: - Tôi đã áp dụng bản sáng kiến này cho cá nhân tôi trong suốt năm học vừa qua, tôi nhận thấy các biện pháp tôi đưa ra rất đơn giản, thực tế, rễ ràng thực hiện đối với mỗi giáo viên mầm non nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt, chính vì vậy bản sáng kiến này của tôi có thể áp dụng rộng rãi cho các lớp MG 5 - 6 tuổi trong thành phố Hà Nội và một số tỉnh thành khác. *Bài học kinh nghiệm: - Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức. - Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi 27/29
- nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế - Chương trình và sách giáo khoa: Phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí thông minh; - Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu, đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm. Qua việc nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy nếu ta sử dụng tốt nhóm phương pháp dạy học tích cực thì chắc chắn chúng ta thu được kết quả tốt nhất. * Những khuyến nghị: - Với GV: Mong chi em đồng nghiệp cùng học hỏi, nghiên cứu để có nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn trong hoạt động học. - Với cấp lãnh đạo: Tổ chức kiến tập nhiều hơn nữa về các hoạt động học có sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong các trường MN. Trên đây là bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi. Kính mong hội đồng khoa học giáo dục cơ sở trường, Hội đồng khoa học cấp trên xem xét và giúp đỡ. Tôi xin chân thành cảm ơn! 28/29
- TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nguyễn Đức Thủy Đổi mới Phương pháp dạy học và kỹ năng, kinh nghiệm dạy trẻ mầm non, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội. - NguyễnAnhTuyến Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nhà xuất bản đại học sư phạm, Tại trung tâm in tranh tuyên truyền cổ động. - Nguồn thông tin trên mạng. 29/29