Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở trường THCS
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_day.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở trường THCS
- MỤC LỤC NỘI DUNG Trang Mục lục CHƯƠNG 1: CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1. Sự cần thiết hình thành giải pháp 2 2. Mục tiêu của giải pháp 4 3. Các căn cứ đề xuất giải pháp 5 4. Các phương pháp thực hiện 7 5. Đối tượng và phạm vi áp dụng 8 CHƯƠNG 2 : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH - NỘI DUNG 1. Quá trình hình thành 8 2. Giải pháp đề xuất 10 3.Biện pháp tiến hành – Thời gian thực hiện giải pháp 12 CHƯƠNG 3 : HIỆU QUẢ GIẢI PHÁP 1. Thời gian áp dụng 29 2. Kết quả thực hiện 30 3. Khả năng triển khai áp dụng giải pháp 30 CHƯƠNG 4 : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 31 2. Đề xuất – Kiến nghị 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1. Sự cần thiết hình thành giải pháp Đất nước ta trong thời kì đổi mới, hội nhập và phát triển, càng mở cửa phải càng giữ gốc. Môn Lịch sử là một trong những môn học để giữ gốc, cái gốc vốn rất lâu đời, bền vững và tốt đẹp của dân tộc ta. Để hoàn thành được nhiệm vụ giữ lấy cái gốc hơn bốn nghìn năm văn hiến của dân tộc, chính là một phần trách nhiệm của những giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử. Trong hệ thống giáo dục ở trường THCS, môn Lịch sử có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ về kiến thức, văn hóa, chính trị. Tư tưởng phẩm chất đạo đức và phong cách sống. Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò to lớn trong việc tác động đến con người không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. giúp các em thấy được quá trình phát triển của một đất nước, một dân tộc mà rộng hơn là xã hội loài người, góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Năm học 2018 - 2019 là năm học tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, khả năng tư duy của người học. Học sinh tự tìm tòi kiến thức, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức, bồi dưỡng kiến thức, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực thông qua các hoạt động học tập dưới sự chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh được trình bày và bảo vệ ý kiến của mình, được lắng nghe và phản biện ý kiến của bạn. Học sinh được sáng tạo, trải nghiệm bản thân tôi là giáo viên dạy môn Lịch sử, tôi nhận thấy thực tế hiện nay- dạy học môn Lịch sử vẫn chưa hoàn thành tốt sứ mệnh của mình. Ở nhiều nơi, giáo viên vẫn chủ yếu dạy học bằng phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên lo truyền đạt hết những nội dung mà thầy cô cho chép. Do đó trong thực tế giảng dạy giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chưa gây hứng thú cho học sinh. Về phía học sinh, chưa chú tâm học tập, nhiều em
- vẫn cho rằng môn Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, môn Lịch sử là môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là những gì đã xảy ra không thể thay đổi. Muốn khắc phục được vấn đề này thì việc gây hứng thú học tập cho học sinh đi là điều không thể thiếu trong giờ học Lịch sử. Vì thế đổi mới phương pháp sử dụng thiết bị dạy học Lịch sử ở trường THCS là việc làm vô cùng cần thiết để thông qua đó giáo viên dễ hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh giúp các em nhớ lâu, nhớ kĩ nội dung của bài. Hòa chung xu thế phát triển của xã hội ngày nay, việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy là việc làm cần thiết và mang tính tất yếu, góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần thiết của người công dân trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Và đối với môn Lịch sử, sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy là một việc làm rất cần thiết, giúp các em dễ hình dung lại sự phát triển của xã hội loài người và gây hứng thú học tập cho học sinh. Thực hiện chỉ thị số 2919/CT của Bộ giáo dục và đào tạo ngày 08/8/2018 của Bộ giáo dục và đào tạo về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2018 - 2019. Căn cứ Quyết định số 2173/QĐ-UBND ngày 09/8/2017 của UBND tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu về kế hoạch thời gian năm học 2018 - 2019 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Thực hiện kế hoạch của Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2018 – 2019; Căn cứ vào kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giáo dục năm học 2018 - 2019 của phòng Giáo Dục và Đào tạo thành phố Vũng Tàu; Căn cứ vào Công văn 5555/ BGDĐT của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 8 tháng 10 năm 2014 về thực hiện đổi mới PPDH và KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Đồng thời Bộ giáo dục và đào tạo đưa ra các nhiệm vụ chủ yếu là: Rà
- soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW; Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông và đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý giáo dục. Đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo dục; Hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Tăng cường cơ sở vật chất đảm bảo chất lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính vì những lí do trên đây và để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ năm học 2018 -2019 của trường trung học cơ sở Phước Thắng, bằng những kinh nghiệm ít ỏi tích lũy được tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “ Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở trường THCS” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử ở THCS hiện nay. 2. Mục tiêu của giải pháp Một trong những phương pháp đặc trưng của bộ môn Lịch sử là phải gây được hứng thú, phát huy được tính tích cực học tập của học sinh đó là sử dụng đồ dùng, công cụ dạy học đúng mục đích, yêu cầu của việc nhận thức. Ở đây người thầy có vai trò quan trọng giúp học sinh sử dụng đúng, có hiệu quả theo nội dung của bài học. Bởi dạy học bằng phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin rất phong phú và đa dạng, sinh động: hình ảnh, sơ đồ, lược đồ, băng hình .do đó người thầy phải giúp học sinh khai thác đúng nội dung. Từ đó các em có sự hứng thú trong học tập và phát huy tính sáng tạo, phát triển khả năng tư duy, hình thành các kĩ năng và bồi dưỡng tình cảm thông qua việc nắm bắt các sự kiện, hiện tượng. Giúp giáo viên và học sinh nhận thức đúng vai trò, vị trí của bộ môn Lịch sử trong trường trung học cơ sở. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử tạo hứng thú hơn cho học sinh trong học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. 3. Căn cứ đề xuất giải pháp
- 3.1. Cơ sở lý luận Sự đổi mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các môn học nói chung và phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được đặt ra và thực hiện một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học , bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm , đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. Tồn tại ở trường trung học cơ sở với tính cách là một khoa học, bộ môn Lịch sử có tác dụng nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức phát triển năng lực nhận thức và hành động cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng dạy và học tập môn Lịch sử chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì thế việc đổi mới một cách toàn diện về nội dung lẫn phương pháp dạy học Lịch sử vô cùng cần thiết. Trong một vài năm gần đây, phương pháp dạy học mới đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường trung học cơ sở như: dạy học nêu vấn đề, dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin Tất cả đều nhằm mục đích tích cực hóa hoạt độngcủa học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Đặc biệt việc sử dụng công nghệ tin học để xây dựng bài giảng điện tử (hay giáo án điện tử) các môn nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng, được xem là một trong những công cụ đem lại hiệu quả tích cực trong việc đổi mới dạy và học. Thực hiện giáo án điện tử hay bài giảng điện tử giáo viên cần có sự hỗ trợ của máy tính. Toàn bộ kế hoạch lên lớp của giáo viên phải được lập trình sẵn.
- Các hoạt động dạy và học được thiết lập hợp lý trong một cấu trúc chặt chẽ, sử dụng các công cụ đa phương tiện bao gồm: các văn bản hình ảnh, âm thanh, phim minh họa để chuyển tải tri thức và điều khiển người học. Khi lên lớp bằng bài giảng điện tử, giáo viên phải thực hiện một bài giảng với toàn bộ hoạt động giảng dạy đã được chương trình hóa một cách sinh động nhờ sự hỗ trợ của cá công cụ đa phương tiện đã được thiết kế trong bài giảng điện tử. Việc giảng dạy bằng bài giảng điện tử có những ưu điểm của nó. Đối với giáo viên, tuy phải đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị một bài giảng điện tử giúp giáo viên hạn chế bớt phần thuyết giảng, có thời gian thảo luận và tăng cường hướng dẫn hỗ trợ học sinh. Bài giảng điện tử giúp đa dạng hóa việc cung cấp kiến thức cho học sinh thông qua các công cụ trình diễn, người giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một khối lượng hình ảnh, phim tài liệu lịch sử liên quan đến nội dung bài học lịch sử mà học sinh được học, như vậy mà giờ học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy bằng bài giảng điện tử cũng không tránh khỏi những bất cập mà bản thân giáo viên nào cũng phải tìm cách khắc phục Đối với học sinh, việc học tập lịch sử thông qua bài giảng điện tử tạo nhiều hứng thú cho các em trong học tập, các em được tiếp cận, nhận thức các sự kiện lịch sử và bài học lịch sử sống động hơn, gần với quá khứ hơn. So với những bài giảng thông thường, học sinh phải mường tượng trong đầu những sự kiện, nhân vật mà thầy cô thuyết giảng thì với việc học trên bài giảng điện tử học sinh đã được trực quan sinh động với những sự kiện nhân vật lịch sử một cách cụ thể giúp kích thích quá trình tư duy của học sinh. Từ đó, nội dung kiến thức lịch sử học sinh sẽ thu thập đầy đủ hơn và in sâu vào trong trí nhớ của các em. 3.2.Cơ sở thực tiễn Xuất phát từ thực tiễn dạy và học bộ môn Lịch sử của giáo viên và học sinh với phương pháp dạy học cũ thụ động, chưa tích cực trong học tập. trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin giáo viên áp dụng vào dạy học nhiều nhưng kết qủa chưa cao. Nhiều giáo viên chỉ biết đưa ra hình ảnh nhưng không
- biết khai thác hình ảnh đó như thế nào, hoặc chưa biết làm các hiệu ứng khi dạy các kiểu bai có lược đồ, sơ đồ, chiến dịch có hiệu quả. Qua việc tiếp cận công nghệ thông tin tôi luôn tìm tòi khám phá, học hỏi các bạn đồng nghiệp để làm sao cho bài giảng có ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả cao nhất, gây hứng thú học tập bộ môn cho học sinh. Đối với học sinh, nhiều em vẫn cho rằng đây là môn “phụ” do đó không phải đầu tư nhiều thời gian , các giờ có ứng dụng công nghệ thông tin các em chỉ ngồi xem hình ảnh, xem phim Từ thực tế như vậy, yêu cầu giáo viên phải có phương pháp đúng để gây hứng thú học tập cho học sinh. Nghiên cứu một số vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài: tìm hiểu chức năng, phương pháp, vị trí, nhiệm vụ của bộ môn, thái độ tư tưởng của học sinh đối với bộ môn Đề xuất một số biện pháp góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh khi ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. 4. Các phương pháp thực hiện Khi nghiên cứu đề tài tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm qua thực tế áp dụng vào quá trình học kết hợp với phân tích , nhận xét. - Phương pháp quan sát: Người thực hiện đề tài tự tìm tòi nghiên cứu, tiến hành dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. - Phương pháp trao đổi, thảo luận: Sau khi dự giờ của đồng nghiệp, có thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ giảng để tiến hành trao đổi , thảo luận, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho tiết dạy. - Phương pháp thực nghiệm : Giáo viên tiến hành dạy thể nghiệm theo mục đích yêu cầu của tiết học. - Phương pháp điều tra: Giáo viên kiểm tra việc tiếp thu kiến thức của học sinh qua giờ học để có những điều chỉnh phù hợp. 5. Đối tượng và phạm vi áp dụng
- Giải pháp tập trung nghiên cứu và đưa ra một số kinh nghiệm trong tổ chức dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hứng thú cho học sinh trong học tập môn Lịch sử. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử ở khối lớp 6 và lớp 7 trường THCS Phước Thắng, thành phố Vũng Tàu. CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH - NỘI DUNG 1. Quá trình hình thành giải pháp Thực trạng vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử ở trường THCS Phước Thắng 1.1.Ưu điểm Tuy gặp nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy nhưng chúng tôi đã cố gắng khắc phục vượt lên những khó khăn trước mắt, từng bước nâng cao chất lượng giờ dạy môn Lịch sử nhằm đáp ứng mục đích chương trình học. * Về phía giáo viên - Bước đầu đã tiếp cận sử dụng tương đối tốt các kĩ thuật dạy học đặc trưng bộ môn - Đã quen và chủ động với cách thức tổ chức các hoạt động dạy học - Phối hợp khá linh hoạt các kỹ thuật dạy học - Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung các tiết dạy, đã thiết kế các bài dạy bằng giáo án điện tử. Vì vậy, nhiều tiết dạy học lịch sử trở nên sinh động có sức lôi cuốn. - Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt cho quá trinh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. * Về phía học sinh - Học sinh đã được quen dần với các môn học ứng dụng công nghệ thông tin.
- 1.2. Những tồn tại Như chúng ta đã nói ở trên, Lịch sử là môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đã diễn ra cách ngày nay hàng trăm hàng nghìn năm, thậm chí lâu hơn nữa. Yêu cầu bộ môn đòi hỏi, khi nhận thức học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra trước mắt mình. Bên cạnh đó khả năng tư duy của học sinh THCS còn hạn chế nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện là nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong lúc đó, các phương tiện trực quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại vừa không phù hợp. Thử lấy ví dụ về hệ thống bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ giáo dục phát hành là không đủ cho các bài dạy. Bên cạnh đó kênh chữ và các kí hiệu quá nhỏ không thể sử dụng được, thậm chí có một số bản đồ còn mâu thuẫn với kiến thức ở sách giáo khoa. Các tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu và thiếu đồng bộ, chưa kể đến phim tài liệu thì hầu như không có. So với yêu cầu đặt ra của bộ môn và định hướng đổi mới phương pháp trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói rằng: Những phương tiện dạy học không thể đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo nên hứng thú học tập cho học sinh. 2. Các giải pháp đề xuất 2.1. Mục đích của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử Hỗ trợ giáo viên trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng và thiết bị bài dạy học bằng công nghệ thông tin. Việc sử dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi người giáo viên phải có kỹ năng thiết kế giáo án và sử dụng những phương pháp truyền đạt mới. Thay vì phấn trắng bảng đen truyền thống, việc sử dụng công nghệ thông tin làm cho bài giảng được thực hiện một cách sinh động, gây hứng thú và phát huy được tính tích cực của cả giáo viên và học sinh. Cái được lớn nhất ở mỗi tiết giảng bằng giáo án điện tử chính là mang lại một lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh động được chuyển tải đến người học. Nguyên tắc trực quan trong dạy học lịch sử đóng vai trò quan trọng, nó làm cho học sinh
- hứng thú và nhận thức một cách chính xác các sự kiện quá khứ và ghi nhớ lâu hơn. Việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính bằng những hình ảnh tư liệu, sơ đồ, lược đồ, đoạn phim tái hiện lại quá khứ giúp bài giảng thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú cho học sinh. Hỗ trợ học sinh trong việc cung cấp kiến thức, giảm tính trừu tượng của nội dung bài học. Học sinh hứng thú hơn trong giờ học bởi các em có thể được sống lại cùng lịch sử qua các hình ảnh tư liệu tạo điều kiện cần thiết cho học sinh thực hành để hình thành và rèn luyện các kĩ năng cho học sinh, góp phần đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Trợ giúp cho giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học kiến thức mới, phát huy tính tìm tòi, khám phá của học sinh. Ví dụ tiết học lịch sử về các nền văn minh, các giá trị văn hóa, các cuộc chiến đấu giáo viên có thể sử dụng hình ảnh, phim tư liệu, các bản đồ điện tử để minh họa, chắc chắn sẽ tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho các em. Chính những điều này sẽ thổi một luồng gió mới vào lớp học, vào nhiệt huyết nghề nghiệp của giáo viên và vào cả tinh thần hăng say học tập của học sinh để mang lại hiệu quả giáo dục cao. 2.2. Yêu cầu sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, đối với mỗi giáo viên phải có sự thích ứng sáng tạo trong vận dụng công nghệ thông tin vào các bài giảng lịch sử. Tuy nhiên không phải bài nào cũng ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả. Bởi trong thực tế hiện nay nhiều giáo viên quá lạm dụng công nghệ thông tin vào dạy học, dạy tràn lan không định hướng được kiến thức cần nắm cho học sinh. Giáo viên phải dựa vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng và rèn luyện kỹ năng để sử dụng đạt mục đích đề ra. Vì thế giáo viên cần phải nghiên cứu thật kỹ bài dạy, ứng dụng công nghệ thông tin mang lại hiệu quả cao nhất cho người học. Để xây dựng bài giảng điện tử, trước hết giáo viên phải xác định được công nghệ thông tin chỉ là công cụ hỗ trợ hữu ích cho dạy học. Giáo viên tránh đưa ra nhiều hình ảnh màu sắc lòe loẹt hoặc những thước phim tư liệu quá dài
- khiến học sinh chỉ chú ý đến việc xem mà không phát huy được sự chủ động, tích cực tư duy. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ thông tin hình thành kiến thức cho học sinh trong dạy học lịch sử còn làm cho giờ học trở nên sinh động, không bị khô khan, tẻ nhạt lôi cuốn được học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo cho các em động cơ và không khí học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc tiếp thu kiến thức khoa học lịch sử một cách hiệu quả, qua đó giáo dục và phát triển toàn diện cho học sinh và nâng cao chất lượng. Khi sử dụng những bức tranh lịch sử có kích thước nhỏ, giáo viên phải đi xuống lớp hướng dẫn học sinh quan sát, sử dụng lược đồ treo tường giáo viên phải mất công treo, hoặc nếu lập niên biểu, vẽ sơ đồ, đồ thị lịch sử trên bảng đen thì giáo viên cũng mất khá nhiều thì giờ, trong khi đó độ chuẩn xác và tinh thẩm mĩ lại không cao. Ngược lại, nếu giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào chuẩn bị bài giảng ở nhà từ trước, những công việc này khi dạy học trên lớp sẽ giúp giáo viên đỡ vất vả hơn rất nhiều, thời gian được tiết kiệm tối đa mà tính trực quan thẩm mĩ lại cao. Ở đây, giáo viên chỉ cần “ nhấn chuột” để trình chiếu và hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến thức “ ẩn” trong mỗi hình ảnh, kênh hình sẽ được phóng to trên màn hình lớn đủ để học sinh cả lớp quan sát. Những mũi tên chuyển động khi tường thuật về một trận đánh, hướng tấn công, hoặc việc sơ đồ hóa các mốc thời gian quan trọng, cụ thể hóa cho đối tượng cần miêu tả trên màn hình lớn kèm theo lời dẫn sinh động của giáo viên sẽ có tác động tới tâm lí học sinh, các em cảm thấy hứng thú hơn, hiệu quả ghi nhớ kiến thức tốt hơn. Với đặc trưng của bộ môn cũng như những ưu điểm nổi bật của công nghệ thông tin và truyền thông, giáo viên và học sinh có thể ứng dụng công nghệ này vào đổi mới phương pháp dạy và học, từng bước nâng cao chất lượng bộ môn ở nhiều hình thức, các khâu khác nhau trong quá trình dạy học. Đối với học sinh: Khi được học những tiết học lịch sử có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin sẽ góp phần tạo biểu tượng, bồi dưỡng kiến thức và làm phong phú thêm sự hiểu biết của học sinh về lịch sử thế giới cũng như lịch sử dân tộc. Trong dạy học lịch sử, để học sinh có thể đi từ nhận thức “ cảm tính”
- đến nhận thức “ lí tính”, trước hết các em phải có biểu tượng lịch sử - những hình ảnh về sự kiện, hiện tượng được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học thật hiệu quả, kết hợp với các phương pháp khác sẽ giúp giáo viên thực hiện tốt công việc này. 3. Các biện pháp tiến hành ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử Để ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử hiệu quả, có rất nhiều hình thức nhưng trong khuôn khổ của đề tài này tôi đưa ra một số vấn đề sau: 3.1 Sử dụng hình ảnh để minh họa cho nội dung bài học: Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng hình ảnh như các bức họa, ảnh chụp đặc biệt là các bộ phim tài liệu. Học Lịch sử là học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những hình ảnh thực tế của quá khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với thời kì lịch sử đó. Hình ảnh là nguồn tư liệu phong phú nhất khi ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, có thể nói bài học nào có ứng dụng công nghệ thông tin thì bài học đó đều có hình ảnh minh họa. Tuy nhiên, giáo viên không vì phong phú mà đưa quá nhiều hình ảnh , hình ảnh không gần với bài học sẽ dẫn tới không thể làm cho học sinh khắc sâu kiến thức. Nếu khai thác tốt hình ảnh sẽ hấp dẫn được học sinh , giúp học sinh hiểu sâu bài học, nhưng ngược lại cũng không tranh khỏi sự tò mò của học sinh dẫn đến sao nhãng việc tiếp thu kiến thức, có hai hình thức sử dụng hình ảnh: 3.1.1 Hình ảnh minh họa cho nội dung kiến thức Sau khi giáo viên đã trình bày xong phần nội dung kiến thức của từng mục, từng bài, giáo viên đưa ra các hình ảnh minh họa cho nội dung bài vừa học xong, qua đó các em nhận thức được sâu sắc hơn vấn đề. Ví dụ 1: Lịch sử 6 - Tiết 6, Bài 6 : Văn hóa cổ đại. Mục 1: Các dân tộc phương Đông thời cổ đại đã có những thành tựu văn hóa gì?
- Trước hết giáo viên hỏi học sinh: Em hãy kể tên một số công trình kiến trúc nổi tiếng ở phương Đông cổ đại và nêu nhận xét của em về công trình đó? Sau khi học sinh trả lời giáo viên chốt lại: Vào buổi bình minh của loài người, cư dân phương Đông đã sáng tạo nên hàng loạt những thành tựu văn hóa phong phú đa dạng, vĩ đại, vừa nói lên năng lực vĩ đại của trí tuệ loài người, vừa đặt cơ sở cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Sau đó giáo viên cho học sinh xem hình ảnh về Kim tự tháp ở Ai Cập, giới thiệu cho học sinh biết: Người Ai Cập cổ đại quan niệm cuộc sống trên trái đất là ngắn ngủi, và ngôi nhà vĩnh cửu là nhà mồ, vì thế các Pha- ra- ông đã xây dựng những ngôi mộ vĩ đại (kim tự tháp) để giữ xác của họ. Tại thời điểm không có máy móc hỗ trợ, những con người xa xưa phải mài nhẵn hàng triệu tảng đá rồi chở qua sông Nin, qua sa mạc và kéo lên cao, xếp thành tháp. Nổi bật là kim tự tháp Khê- ốp xây dựng vào năm 2700TCN, cao khoảng 146,6 mét, tương đương tòa nhà 50 tầng. Họ phải dùng 2,6 triệu tảng đá, có tảng nặng tới 55 tấn, mất 20 năm họ mới hoàn thành. Từ đó, học sinh ngưỡng mộ, thán phục tài năng, trí tuệ vĩ đại của người xưa, khắc sâu kiến thức, thúc đẩy các em phấn đấu học tập và lao động. Ví dụ 2: Lịch sử 6 Tiết 22 – Bài 20: Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (Giữa thế kỉ I – Giữa thế kỉ VI) Mục 3: Những chuyển biến về xã hội và văn hóa nước ta ở các thế kỉ I – VI.
- Sau khi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đưa ra những phong tục tập quán và nếp sống của nhân dân ta vẫn còn lưu giữ đến ngày hôm nay như: nhuộm răng ăn trầu, thờ cúng tổ tiên, gói bánh chưng bánh giầy, tiếng việt Giáo viên đưa ra hình ảnh để minh họa cho nội dung kiến thức vừa học, bằng lời nói sinh động hấp dẫn học sinh dễ khắc sâu kiến thức trọng tâm của bài có hứng thú học tập bộ môn. Đồng thời giáo viên hỏi học sinh : “ Vì sao nhân dân ta vẫn giữ được phong tục tập quán, tiếng nói của tổ tiên?”. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhấn mạnh cho học sinh thấy sự đấu tranh chống lại chính sách “ đồng hóa” của phong kiến phương Bắc và kiên trì bảo vệ gìn giữ bản sắc văn hóa người Việt mà còn làm phong phú hơn chữ Việt của chúng ta, đó là từ Hán - Việt như từ quốc (nước), tiền (trước), hậu (sau), 3.1.2 Hình ảnh khắc sâu kiến thức: Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh sau đó rút ra những vấn đề kiến thức của bài học, nhằm khắc sâu kiến thức trọng tâm. Vấn đề này không khó nhưng giáo viên lại không hay chú ý thường bỏ qua hoặc làm thay cho học sinh.
- Ví dụ 1: Lịch sử lớp 6, Tiết 14, Bài 13: Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang. Mục 1: Nông nghiệp các nghề thủ công, ý 2: các nghề thủ công. Giáo viên sử dụng hình ảnh trống đồng Đông Sơn được sử dụng để giảng dạy GV hướng dẫn HS quan sát hình ảnh kết hợp với đọc SGK để hiểu về nhề luyện kim của cư dân Văn Lang GV tổ chức cho HS khai thác nội dung thông qua câu hỏi: Nhìn vào hình ảnh em cho biết đây là cái gì? Em có nhận xét gì về hoa văn trên vật đó? Sau khi học sinh trả lời những nội dung trên, giáo viên tập trung sự chú ý vào hình ảnh và giải thích cho học sinh: Trống đồng là nhạc cụ tiêu biểu của cư dân Văn Lang. Ngoài làm nhạc cụ trong các lễ hội , trống còn sử dụng làm hiệu lệnh chiến đấu, trong giữ gìn an ninh hoặc làm đồ tùy táng (chôn theo người chết). Kết cấu trống gồm có phần tang phình ra, phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp mà còn có sức cộng hưởng âm thanh vang xa. Hoa văn trên trống đồng thể hiện lễ hội đua thuyền, giã gạo, của cư dân Văn Lang. Trống đồng thể hiện kỹ thuật đúc đồng tinh xảo và trống đồng Đông Sơn là đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng, của trình độ thẩm mĩ, tạo hình của cư dân Văn Lang. Như vậy khi chiếu lên màn hình lớn kết hợp miêu tả gợi mở để tạo hứng
- thú cho học sinh. Nhờ đó các em sẽ khắc sâu về hình tượng trống đồng là đỉnh cao của thuật luyện kim đồng của cư dân Văn Lang thời bấy giờ. 3.2. Sử dụng các đoạn phim tư liệu để minh họa cho nội dung bài học Có thể nói các thước phim tư liệu là nguồn tư liệu là nguồn tư liệu sống trong dạy học lịch sử, bởi qua những thước phim này các em biết hơn về quá khứ hào hùng của dân tộc. Tùy theo nội dung của bài mà giáo viên có thể đưa vào những đoạn phim tư liệu, những bài hát phù hợp làm phong phú thêm bài học, đồng thời thay đổi không khí trong một giờ học Lịch sử. Có hai hình thức sử dụng đoạn phim tư liệu: 3.2.1. Xem phim tư liệu bổ sung kiến thức vừa học Ví dụ : Lịch sử 7 - Tiết 57 Bài 25: Phong trào Tây Sơn. Mục IV Tây Sơn đánh tan quân Thanh, phần 2: Quang Trung đại phá quân Thanh Giáo viên cho học sinh xem đoạn phim: “ Quang Trung và cuộc hành binh thần tốc Tết Kỷ Dậu 1789 ”của bộ phim “Núi sông bờ cõi”. Sau khi xem xong, giáo viên đặt câu hỏi: “ Vì sao Vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế ? Chiến thuật quân sự của vua Quang Trung thể hiện như thế nào? ” Học sinh kết hợp với phương pháp trao đổi, đàm thoại, thảo luận . Phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài như trên sẽ giúp các em hiểu rằng: Quân Thanh vào nước Việt danh nghĩa phù Lê diệt các thế lực chống đối sự chính thống của nhà Lê. Các hoàng đế nhà Lê hết vai trò lịch sử, lại trở thành kẻ bán nước, cõng rắn cắn gà nhà. Bấy giờ, phải có sự thay đổi cần có 1 vị vua chính thống lên ngôi để lãnh đạo nhân dân chống giặc. Duy nhất chỉ có 1 ông vương ở Trung Hoa xưng đế nhưng ở đây vua Quang Trung xưng đế là ngang hàng với Trung Hoa. Mọi hành động xâm phạm bờ cõi quốc gia đều bị quân và dân nước ta tiêu diệt. Giáo viên dùng lược đồ động, kèm theo hình ảnh , đoạn phim tư liệu miêu tả về sự chuẩn bị về lực lượng của vua Quang Trung vừa hành quân vừa tuyển quân. Chắc chắn Tôn Sĩ Nghị vẫn biết Quang Trung đang kéo quân ra Bắc nhưng không ai thể ngờ cuộc hành quân lớn thần tốc từ Nam ra Bắc chỉ trong 36
- ngày, và lực lượng ngày càng đông hơn. Chính yếu tố này dẫn đến bất ngờ, táo bạo làm nên chiến thắng. Trong trận đánh Ngọc Hồi Đống Đa, Vua Quang Trung chỉ phô trương thanh thế dương đông kích tây chưa đánh trực tiếp vào Thăng Long, nhưng lại cho những cánh quân phụ của đô đốc Long và đô đốc Bảo là yếu tố quyết định cho cuộc chiến. Chính vì vậy, Tôn Sĩ Nghị tại Thăng Long nghe tin thất bại ở Ngọc Hồi - Đống Đa khiếp đảm bỏ chạy Như vậy, khi xem xong phim, học sinh được bổ sung kiến thức, khắc sâu hơn về người dân tộc Tây Sơn Nguyễn Huệ và nghệ thuật quân sự thiên tài của ông là hành quân thần tốc, tiến quân mãnh liệt, chỉ đạo chiến đấu hết sức cơ động. Ông góp phần đưa khoa học quân sự Việt Nam lên tầm cao mới cuối thế kỉ XVII. Qua đó các em thêm phấn khởi, tự hào dân tộc, ra sức học tập noi gương thế hệ cha anh đi trước. 3.2.2. Xem phim tư liệu rút ra những nội dung cơ bản của bài học Ví dụ 1: Lịch sử lớp 7: Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên (thế kỉ XIII).Mục III- Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287- 1288). Khi dạy phần 1: Nhà Nguyên xâm lược Đại Việt. Giáo viên cho học sinh xem đoạn phim “ Hào khí ngàn năm”: Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần ba”. Sau khi xem xong đoạn phim giáo viên hỏi học sinh : - Mục đích xâm lược Đại Việt lần thứ ba của nhà Nguyên là gì? - Nhà Nguyên đã chuẩn bị như thế nào cho cuộc tấn công xâm lược lần thứ ba này? - Em có nhận xét gì về việc chuẩn bị cho cuộc tấn công Đại Việt lần thứ ba của nhà Nguyên? Khi được xem đoạn phim , học sinh có thể rút ra nội dung cơ bản của mục 1 là: quân Nguyên với tham vọng thống trị thế giới, ý chí quyết tâm thôn tính Đại Việt của nhà Nguyên để rửa hận vì thất bại thảm hại ở hai lần trước. Học
- sinh thấy rõ nhà Nguyên đã chuẩn bị cho cuộc xâm lược này rất công phu, kỹ lưỡng về quân số, tướng chỉ huy. Đặc biệt là cả lương thực để có thể đánh lâu dài với quân dân Đại Việt. Âm mưu và chủ trương của quân Nguyên là chiếm Vạn Kiếp , xây dựng thành căn cứ vững chắc để đánh lâu dài và gây thêm khó khăn cho quân dân nhà Trần. Đây là khó khăn mới, là thách thức vô cùng to lớn của Đại Việt trong cuộc kháng chiến này. Như vậy học sinh sẽ thấy rõ và khắc sâu kiến thức của bài, và các em sẽ bị lôi cuốn khi sang phần tiếp theo xem vua tôi nhà Trần phải chuẩn bị và chiến đấu như thế nào để đánh bại được nhà Nguyên. Ví dụ 2: Khi dạy lịch sử lớp 7: Bài 19: Cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427). Mục III- Khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng (cuối 1426- cuối 1427). Khi dạy đến mục 2. Trận Chi Lăng- Xương Giang, Quân Lam Sơn đại thắng Chi Lăng giáo viên thường đọc một đoạn trích của bài “ Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cho học sinh nghe, nhưng khi có ứng dụng công nghệ thông tin giáo viên cho học sinh xem và nghe đoạn trích trên màn hình, các em sẽ thấy như trận đánh đang diễn ra trước mắt tạo hứng thú học tập cho học sinh và sẽ nhớ lâu hơn kiến thức đã học. 3.3. Xây dựng và kết hợp sử dụng tranh, ảnh, đoạn phim để minh họa cho nội dung bài học. Tôi đã sử dụng một số hình ảnh và một vài đoạn phim ngắn để minh họa cho như sau: Lịch sử 7, Tiết 16, Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 – 1077) - Mục II: Giai đoạn thứ hai (1076 – 1077) 3.3.1 Chèn đoạn phim tài liệu để minh họa. Ta có thể lấy một đoạn phim sau để minh họa: Đoạn 1: Phòng tuyến trên sông Như Nguyệt Đoạn 2: Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt Đoạn 3: Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh, đề nghị “ giảng hòa”
- * Cách làm: Đầu tiên ta cần chuẩn bị phần mềm cắt phim và chuẩn bị những đoạn phim phục vụ giảng dạy. Ví dụ: Ta cần cắt một đoạn phim từ một bộ phim “Hào khí ngàn năm” của Đài truyền hình Việt Nam sản xuất. Sử dụng phần mềm Herosoft 2.1 để cắt phim. Để cắt phim ta làm như sau: - Mở bộ phim bằng phần mềm Herosoft 2.1 - Chọn nút cắt ( ) sau đó dùng nút ( ) để cắt đầu đoạn phim, nút ( .) để cắt cuối đoạn phim theo đúng nội dung cần minh họa. - Ấn nút MPG để lưu phim vào một thư mục nào đó . Sau đó ta chèn phim vào bài giảng bằng cách - Chọn một Slide trên Powerpoint. - Chọn nút liên kết có thể tùy chọn trong AutoShape. - Nhấn chọn nút đó rồi nhấn chuột phải chọn Hyperlink. - Sau đó chỉ đến thư mục chứa đoạn phim vừa lưu rồi nhấn nút OK. - Với cách làm như vậy ta lần lượt chèn cả 3 đoạn phim vào bài giảng. * Sử dụng để giảng dạy: Đoạn thứ nhất : Phòng tuyến trên sông Như Nguyệt Thường Kiệt Khi dạy mục 1: Kháng chiến bùng nổ, ý a. Chuẩn bị kháng chiến: Sau khi giáo viên giảng về công tác chuẩn bị của quân ta để đối phó với quân Tống, giáo viên cho học sinh theo dõi đoạn phim: “ Phòng tuyến trên sông Như Nguyệt”, để các em thấy được: Ngoài việc chuẩn bị bố phòng ở những nơi hiểm yếu, vùng biên giới. Nhằm cản bước quân thủy của giặc, Lý Thường Kiệt giáo cho Lý Kế Nguyên lập phòng tuyến ở phía Đông Bắc. Và phòng tuyến chủ yếu được xây
- dựng ở bờ Nam sông Như Nguyệt. Đây là đoạn sông có vị trí đặc biệt quan trọng, vì nó án ngữ mọi con đường từ phía Bắc chạy về Thăng Long. Phòng tuyến dài 100km, được đắp bằng đất, cao, vững chắc, bên ngoài còn có mấy lớp giậu tre dày đặc. Quân chủ lực của ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy trực tiếp giữ phòng tuyến quan trọng này gồm cả bộ binh và thủy binh. Sau khi xem đoạn phim học sinh sẽ từ tư duy trừu tượng đến trực quan sinh động, các em sẽ nắm bắt nhanh hơn và hiểu rõ hơn: Vì sao Lý Thường Kiệt chọn sông Như Nguyệt để lập phòng tuyến? Đoạn phim thứ hai: Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt Đoạn phim này được sử dụng ở mục 2: Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt. Giáo viên mở đoạn phim thứ hai cho học sinh xem, để học sinh thấy được hai bên ta và địch ở thế phòng thủ, phía Tống không dám vượt sông vì còn chờ viện binh là quân thủy (đã bị Lý Kế Nguyên tiêu diệt). Quân Tống chờ đợi, lương thực cạn kiệt, thời tiết oi bức, bệnh tật lan tràn. Đêm đêm, Lý Thường Kiệt đã cho quân sĩ vào đền Trương Hống và Trương Hát (hai vị tướng của Triệu Quang Phục) đọc bài thơ” Nam quốc sơn hà”. Với giọng đọc hùng hồn trong phim và đây là bài thơ khích lệ tinh thần chiến đấu của quân ta, làm cho quân giặc khiếp đảm tuyệt vọng hơn nữa. Đoạn phim trên sẽ giúp các em thấy được sự thông minh, đánh vào tâm lý của kẻ thù của Lý Thường Kiệt. Đoạn phim thứ ba: Lý Thường Kiệt chủ động kết thúc chiến tranh, đề nghị “giảng hòa”. Sau khi cho hoc sinh xem đoạn phim thứ ba, giáo viên hỏi học sinh: “ Vì sao Lý Thường Kiệt lại cử người đến thương lượng giảng hòa với Quách Quỳ? ”. Học sinh có thể nhận thấy ngay đây là một cách kết thúc chiến tranh rất độc đáo của Lý Thường Kiệt- không tiêu diệt toàn bộ quân thù khi chúng đã ở thế cùng lực kiệt, mà kết thúc bằng cách giảng hòa để đảm bảo mối quan hệ bang giao hò hiếu giữa hai nước sau chiến tranh, không làm tổn thương danh dự của nước lớn, đảm bảo một nền hòa bình lâu dài, đó là tính thần nhân đạo của dân tộc ta.
- Như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin có rất nhiều cách khác nhau và đem lại nhiều tiện ích trong quá trình dạy học. Trên đây là một vài kinh nghiệm, thực tế giảng dạy của bản thân đã đem lại một số kết quả tích cực trong quá trình dạy học. 3.3.2. Chèn các bức ảnh vào bài học * Cách làm: Để chèn một bức ảnh vào bài giảng ta cũng sử dụng một số thao tác Powerpoint. Trước hết ta cần có những bức ảnh thật hoặc một đoạn phim hoặc ảnh trong máy ảnh thuật số. Nếu là bức ảnh bằng giấy thì ta sử dụng máy quét để quét và lưu vào máy vi tính sau đó bắt đầu ta mở một Slide trên Powerpoint, chọn vị trí cần chèn và chọn Insert trên thanh công cụ. Sau đó, ta chọn Picture/ From file/ chỉ ra fie chứa hình ảnh rồi chọn bức ảnh cần chèn và nhấn Insert. Với cách làm trên, chúng ta có thể chèn 2 hình ảnh vào bài, đó là “ Ngôi đền cổ thờ Thái úy Lý Thường Kiệt ở xã Hà Ngọc , huyện Hà Trung, Thanh Hóa”, “ Cổng chính vào đền Lý Thường Kiệt” Cổng chính vào đền Lý Thường Kiệt Ngôi đền cổ thờ Thái úy Lý Thường Kiệt ở xã Hà Ngọc , huyện Hà Trung, Thanh Hóa. * Sử dụng để dạy: Khi dạy cuối bài mục: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử. Sau khi giảng công lao to lớn của Lý Thường Kiệt đối với nước ta, giáo viên hỏi: “ Nhân dân ta đã làm gì để thể hiện làng biết ơn đối với Thái úy Lý Thường Kiệt?”. Sau
- khi học sinh trả lời giáo viên cho học sinh cho các em xem hai hình ảnh “Cổng chính vào đền Lý Thường Kiệt”, “Ngôi đền cổ thờ Thái úy Lý Thường Kiệt ở xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, Thanh Hóa”. Qua hai hình ảnh, giáo dục cho học sinh lòng biết ơn, tự hào dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn từ xa xưa của dân tộc ta, các em sẽ có ý thức xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày càng tươi đẹp giàu mạnh hơn. 3.4. Xây dựng và sử dụng lược đồ để khai thác nội dung bài học Ưu thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử là bằng các hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động trong diễn biến các trận đánh và thấy được sự quyết liệt của mỗi sự kiện Một bản đồ động sẽ hứng thú hơn so với một bản đồ tĩnh, tuy nhiên việc thiết kế một bản đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo viên. Phương pháp này có thể áp dụng rất nhiều bài trong chương trình của bộ môn Lịch sử, đặc biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các trận đánh lớn, tôi xin nêu một số trường hợp cụ thể: Để dạy Lịch sử Lớp 6, Bài 17: Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40). Tôi sử dụng bản đồ động để mô tả minh họa cho diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Tôi xin giới thiệu cách làm và sử dụng bản đồ động trong bài học Xây dựng và sử dụng bản đồ động * Xây dựng: Để xây dựng và sử dụng bản đồ động thì cần có một bản đồ trên giấy của phong trào hoặc là bản đồ điện tử có sẵn. Ở đây tôi sử dụng bản đồ trong sách giáo khoa hình 43 ( trang 49) Bước 1: Trước hết ta dùng một máy quét nối với máy tính để quét bản đồ vào trong máy tính. Sau đó dùng kĩ thuật vẽ trong Powerpoint để chỉnh sửa bản đồ theo như mục đích sử dụng ( có thể phóng to, thu nhỏ, cắt bớt một số phần). Bước 2: Vẽ các kí hiệu trên bản đồ.
- - Công việc này nhằm tạo ra các kí hiệu, cho xuất hiện theo ý đồ định sẵn phù hợp với diễn biến của phong trào theo đúng thứ tự. - Để vẽ các kí hiệu này ta vào Powerpoint/ AutoShaper rồi chọn các kí hiệu phù hợp. Ở đây tôi chèn hình lá cờ đỏ là Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Chèn hình thành màu xanh là nơi thủ phủ của nhà Hán (Tô Định), tôi chọn mũi tên màu đỏ thể hiện cho sự di chuyển tấn công của quân Hai Bà Trưng , các chấm màu đỏ là những địa điểm Hai Bà Trưng tiến đánh làm chủ, và mũi tên màu xanh nét đứt thể hiện cho quân nhà Hán bỏ chạy về nước. Sau khi vẽ xong các kí hiệu theo đúng mục đích sử dụng thì ta đặt hiệu ứng xuất hiện theo trình tự diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Cách đặt hiệu ứng như sau: + Chọn kí hiệu cần đặt hiệu ứng, ví dụ lá cờ đỏ + Ta chọn hình lá cờ sau đó nháy chuột vào Slide show + Chọn Custom Animation + Chọn Add Effect/ Entrance. Sau đó tùy chọn kiểu xuất hiện lá cờ ta nên chọn hiệu ứng nhấp nháy. Các kí hiệu còn lại ta chọn hiệu ứng tương tự theo đúng trình tự diễn biến của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. * Sử dụng: Trước hết GV cho HS quan sát lược đồ, giới thiệu khái quát lược đồ. Đồng thời tổ chức cho HS khai thác lược đồ .Đây là lược đồ Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, giáo viên trình bày diễn biến cùng với việc minh họa lược đồ trên máy.Đầu tiên Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn( Hà Nội), giáo viên nháy chuột cho lá cờ đỏ xuất hiện ở Hát Môn biểu thị việc hai bà phất cờ khởi nghĩa. Sau đó nghĩa quân tiến về làm chủ Mê Linh, tiến đánh Cổ Loa và Luy Lâu. Cùng với việc giảng bài thì giáo viên nhấp chuột lần lượt các mũi tên đỏ và
- chấm đỏ xuất hiện ở Mê Linh, Cổ Loa và Luy Lâu. Tô Định hoảng sợ bỏ thành Luy Lâu chạy về Nam Hải (Quảng Đông). Khi giảng đến đây giáo viên đồng thời nhấp chuột cho xuất hiện thành Luy lâu màu xanh và những mũi tên nét đứt màu xanh biểu hiện cho sự bỏ chạy của Quân Hán. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã giành thắng lợi. Việc sử dụng bản đồ động trong bài này cũng như một số bài khác có liên quan đến diễn biến của các cuộc khởi nghĩa đã góp phần tăng tính trực quan sinh động, giúp các em có thể nhận thức lịch sử nhanh chóng, hiệu quả hơn. 3.5. Sử dụng hệ thống bảng biểu điện tử để khai thác nội dung bài học Sử dụng bảng niên biểu, bảng so sánh, giúp các em khái quát nội dung sau mỗi phần, mỗi bài, mỗi giai đoạn lịch sử Hình thức này phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm, so sánh sự khác nhau . Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu, học sinh trình bày. Cuối cùng, giáo viên chốt lại ý và kết luật qua các bảng biểu. Ví dụ 1: Lịch sử 6, Tiết 3: Bài 3: Xã hội nguyên thủy, giáo viên hướng dẫn cho học sinh so sánh sự khác nhau giữa Người tối cổ và Người tinh khôn.
- Nội dung Người tối cổ Người tinh khôn Thời gian Cách ngày nay khoảng 3-4 Cách ngày nay khoảng 4 triệu năm vạn năm Hình dáng - Dáng khom, hai chi trước Cấu tạo cơ thể giống người dùng để cầm nắm, hái lượm, ngày nay,đi thẳng, hai tay hoàn toàn đi đứng bằng hai chi khéo léo. Thể tích não: sau. 1450cm3 -Trán ngắn bợt ra sau, hàm nhô. Thể tích não : 850cm3- 1100cm3. Công cụ sản - Công cụ đá thô sơ - Công cụ đá ghè đẽo và xuất, đồ dùng được mài cho sắc, công cụ - Chưa có đồ dùng bằng xương, sừng. Biết trồng trọt chăn nuôi. - Đồ gốm, vải, đồ trang sức Tổ chức xã hội Sống theo bầy(bầy người) Sống theo nhóm nhỏ (thị tộc) Nhận xét: - Do kết quả của cả một quá trình lao động, kiếm sống rất lâu dài đã làm thay đổi các chi thay đổi bộ óc, tức là thay đổi về hình dáng giữa Người tối cổ và Người tinh khôn. - Qua việc chế tạo công cụ sản xuất và đồ dùng, cách tổ chức xã hội chứng tỏ cuộc sống của Người tinh khôn hơn hẳn cuộc sống của Người tối cổ. 3.6. Xây dựng và sử dụng sơ đồ điện tử để minh họa và củng cố bài học.
- Phương pháp này áp dụng rất nhiều bài nhưng tôi chỉ đưa ra ví dụ khi dạy Lịch sử 7: Tiết 4, Bài 4- Trung Quốc thời phong kiến * Cách xây dựng: Trước hết ta dùng các thao tác trên Powerpoint để vẽ các bộ phận của sơ đồ. Để vẽ các sơ đồ như trên ta nháy chuột vào các ô hình chữ nhật và hình mũi tên trên màn hình rồi vẽ lên màn hình. Để viết chữ vào các ô ta nháy vào hình chữ nhật cần viết nhấn chuột phải chọn Addtext rồi viết chữ theo nội dung như trên. Sau đó ta tạo hiệu ứng lần lượt cho các bộ phận trong sơ đồ. Quý tộc ĐỊA CHỦ Nông dân giàu Nông dân Nông dân tự canh công xã Nông dân nghèo NÔNG DÂN LĨNH CANH SƠ ĐỒ PHÂN HOÁ XÃ HỘI PHONG KIẾN TRUNG QUỐC (TK III TCN) Đây là dạng bài không có sơ đồ được vẽ sẵn trong sách giáo khoa, không yêu cầu học sinh kĩ năng vẽ sơ đồ, mục tiêu của bài học làm cho học sinh hiểu rõ được sự phân hoá và hình thành của các tầng lớp xã hội dưới sự tác động của các hình thức sản xuất mới, nhưng để đạt được mục đích này giáo viên lại cần thiết phải sử dụng đến phương tiện trực quan có hiệu quả nhất đó là sơ đồ.Cho học sinh đọc kênh chữ ở sách giáo khoa. Học sinh dựa vào sơ đồ hoạt động nhóm trả lời các câu hỏi sau: Xã hội phong kiến Trung Quốc có những giai cấp nào? Các giai cấp này được hình thành như thế nào?
- Đại diện học sinh trong nhóm lên bảng dựa vào sơ đồ để trả lời.HS nhận xét, bổ sung. GV kết luận, HS tự ghi kiến thức vào vở Từ việc tiếp nhận thông tin bằng kênh chữ giáo viên đã tăng cường tính cụ thể, tính hình ảnh của các thông tin về các hiện tượng xã hội bằng sơ đồ giúp học sinh dễ tiếp thu nội dung, bản chất hiện tượng xã hội. Sơ đồ trên giúp học sinh hiểu rõ nội dung và những đặc trưng cơ bản, sự phân biệt giai cấp trong xã hội Trung Quốc vào thế kỉ III TCN. Trong quá trình sử dụng sơ đồ phân hoá xã hội giáo viên đã làm cho học sinh thấy rõ mối quan hệ của các giai cấp xã hội bằng các đường dẫn có mũi tên trong sơ đồ: Địa chủ có nguồn gốc từ tầng lớp quý tộc và nông dân giàu có, họ là những người có nhiều ruộng đất. Nông dân lĩnh canh là những người nông dân nghèo không có ruộng đất, phải làm thuê cho địa chủ và nộp tô cho địa chủ nên khổ cực hơn cả nông dân tự canh. Qua cách phân tích dẫn dắt vấn đề giáo viên đã hình thành khái niệm và giúp học sinh có thể hiểu sâu nội dung khái niệm “địa chủ”, “nông dân lĩnh canh”, nắm được mối quan hệ giữa địa chủ và nông dân lĩnh canh- hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến phương Đông. CHƯƠNG 3: HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP 1. Thời gian áp dụng Thực hiện thường xuyên trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là những bài có nhiều kênh hình, lược đồ và cần thiết những đoạn phim minh họa. Ứng dụng sơ đồ điện tử để củng cố bài học và bản đồ động minh họa diễn biến. Tôi tiến hành điều tra ở khối 6 Trước khi áp dụng: Điểm kiểm tra 1 tiết môn lịch sử khối 6 học kỳ I năm học 2018-2019 Số lượng Giỏi Khá TB Yếu 565 105 171 264 25 Tỉ lệ % 18,6 30,3 46,7 4,4
- 2. Kết quả đạt được Trong quá trình áp dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng một cách thường xuyên, đầy đủ, phù hợp với nội dung yêu cầu của bài học và trình độ nhận thức, hiểu biết của học sinh ở khối lớp 6. Kết quả là chúng tôi nhận thấy ở hầu hết các giờ học có khai thác, sử dụng công nghệ thông tin trong bài dạy lịch sử thì tất cả học sinh đều rất tích cực và hứng thú trong việc học tập đối với bộ môn lịch sử. Các em luôn chủ động tự giác tích cực tham gia vào những hoạt động do giáo viên tổ chức vì vậy chất lượng của môn học cao hơn hẳn so với trước đây. Qua việc áp dụng sáng kiến chúng tôi đã giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu nhớ lâu và tiếp thu bài học nhanh và có hiệu quả hơn đồng thời cũng đã hình thành ở học sinh khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, từ đó khắc sâu biểu tượng về sự kiện hiện tượng lịch sử, các em có thể thuộc bài ngay tại lớp. Tôi cũng nhận thấy: - Học sinh Giỏi – Khá : nắm vững vận dụng tốt kiến thức, kỹ năng học bài, làm bài tốt. - Học sinh trung bình: nắm được kiến thức cơ bản làm bài tương đối tốt. - Một số học sinh chưa chăm học có sự chuyển biến nhưng kết quả chưa cao. Sau khi áp dụng: Điểm kiểm tra học kỳ I môn lịch sử khối 6 năm học 2018- 2019 Số lượng Giỏi Khá TB Yếu 565 144 184 227 10 Tỉ lệ % 25,5 32,7 39,9 1,9 3. Khả năng triển khai, áp dụng của giải pháp Như vậy, với các giải pháp hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình trong lịch sử được coi là một bước thành công trong dạy học lịch sử.
- Để học tốt môn lịch sử cần có nhiều yếu tố tạo thành: phương pháp dạy học tích cực, tác phong, chuẩn bị giáo án của giáo viên, sự chuẩn bị bài của học sinh. Nhưng đối với bộ môn Lịch sử việc khai thác kênh hình, bản đồ, lược đồ là thường xuyên và diễn ra hầu hết ở các lớp. Để thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương hướng đổi mới có hiệu quả, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là việc phải làm và nên làm. Trước đây ta thường quan niệm thiết bị dạy học môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài tác dụng đó, thì người ta còn nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng này sẽ tạo điều kiện giúp giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng và giúp học sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào quá trình nhận thức lịch sử, hứng thú học tập bộ môn, đồng thời nâng cao chất lượng môn Lịch sử. CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 4.1. Kết luận: Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử nói chung và sử dụng kênh hình trong SGK lịch sử nói riêng là một công việc cần thiết và bắt buộc đối với mỗi giáo viên khi tham gia quá trình dạy học. Muốn làm tốt có hiệu quả việc này cần phải nắm vững lý luận về phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới hiện nay. Giáo viên phải có kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm, biết định hướng học sinh theo mục tiêu giáo dục chung. Giáo viên biết sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học một cách thuần thục, biết thiết kế bản đồ điện tử với các hiệu ứng phù hợp với từng kiểu bài. Giáo viên cũng cần cân nhắc, tránh lạm dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Tăng cường quá trình kiểm tra việc rèn luyện kỹ năng qua các giờ học có sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin, giúp các em có tư duy độc lập về bài học.
- Việc hướng dẫn học sinh học tập không phải chỉ được tiến hành vào những giờ thao giảng, dạy minh hoạ mà nó phải được sử dụng thường xuyên liên tục. Muốn học sinh học tập tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp sử dụng. Có sự chuẩn bị công phu về kế hoạch bài dạy, nhất là khâu tổ chức cho học sinh tìm hiểu, tiếp nhận kiến thức mới trên lớp. Muốn thiết kế được tiết dạy có hiệu quả, giáo viên phải tham khảo tài liệu có liên quan đến bài học, đọc kỹ mục tiêu cần đạt, xác định kiến thức cơ bản, chuẩn kiến thức kỹ năng. Đồng thời giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng học sinh( khá, giỏi, trung bình, yếu, kém) để đảm bảo học sinh nhận thức được những kiến thức cơ bản của bài học, của cả quá trình học tập. 4.2. Kiến nghị: Trong thời đại công nghệ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung không còn xa lạ, và trong bộ môn Lịch sử nói riêng lại là điều cần thiết hơn hẳn, nhằm gây hứng thú cho học sinh học tập bộ môn, vì đây là một bộ môn “ lật trang sách đất viết trang sách đời”, giúp học sinh trong thời kỳ hội nhập có kiến thức quá khứ vững vàng xây dựng tương lai tốt đẹp. Để làm được điều đó bản thân tổ chức các tôi có một số kiến nghị: Cần thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm giữa đồng nghiệp về việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Nhà trường nên trang bị máy tính, đầu chiếu đa năng tới các phòng học để ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học một cách hiệu quả và thường xuyên. Tuy thời gian nghiên cứu chưa nhiều, phạm vi đề tài chưa sâu, nhưng bản thân đã thấy một số kết quả khả quan, nên tôi mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm này cùng các bạn đồng nghiệp. Do năng lực bản thân có hạn, tuổi nghề và kinh nghiệm chuyên môn còn ít nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót vì vậy tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để đề tài của chúng tôi được hoàn thiện hơn nữa.
- Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các thầy cô giáo và các em học sinh trường Trung học cơ sở Phước Thắng đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Xác nhận, đánh giá xếp loại của đơn vị Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi viết, không sao chép nội dung của người khác. Vũng Tàu, ngày tháng năm 2018 Thủ trưởng đơn vị Người viết Lê Thị Thanh Kim Huệ
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chỉ thị số 2919/CT của Bộ giáo dục và đào tạo ngày 08/8/2018 của Bộ giáo dục và đào tạo về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2018 - 2019. Quyết định số 2173/QĐ-UBND ngày 09/8/2017 của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về kế hoạch thời gian năm học 2018 - 2019 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Kế hoạch của Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2018 – 2019; Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ giáo dục năm học 2018 - 2019 của phòng Giáo Dục và Đào tạo thành phố Vũng Tàu; Công văn 5555/ BGDĐT của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 8 tháng 10 năm 2014 về thực hiện đổi mới PPDH và KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 2. Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử Trung học cơ sở ( Tài liệu tham khảo). Bộ giáo dục và đào tạo. 3. Cuốn “ Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc Liên. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2002. 4. Hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở - Bộ Giáo dục và Đào tạo. 5. Cuốn “Khai thác kênh hình trong SGK lịch sử” của Trịnh Đình Tùng – NXB
- Giáo dục 2007. 6. Phim ảnh tư liệu tham khảo từ đĩa VCD tư liệu và sản phẩm ứng dụng công thông tin của thạc sĩ Nguyễn Mạnh Hưởng – Khoa Lịch sử - trường Đại học sư phạm Hà Nội NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC THÀNH PHỐ