Chuyên đề Phương pháp phân tích lược đồ phục vụ cho dạy môn Địa lí ở trường THCS

doc 14 trang Đăng Bình 05/12/2023 1060
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Phương pháp phân tích lược đồ phục vụ cho dạy môn Địa lí ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen_de_phuong_phap_phan_tich_luoc_do_phuc_vu_cho_day_mon.doc

Nội dung text: Chuyên đề Phương pháp phân tích lược đồ phục vụ cho dạy môn Địa lí ở trường THCS

  1. Trường THCS Phước Thắng Tổ: Sử- Địa- CD CHUYÊN ĐỀ SỐ 1: “phương pháp phân tích lược đồ phục vụ cho dạy môn địa lí ở trường THCS” I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Sự cần thiết của chuyên đề Địa lí là một môn học tổng hợp, nó kết hợp chặt chẽ giữa các môn khoa học tự nhiên và các môn khoa học xã hội. Bởi vậy muốn học được tốt và muốn hiểu biết, giải thích được các sự vật và hiện tượng địa lí một cách thành thạo học sinh cần xét trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố tự nhiên và xã hội, tự nhiên với tự nhiên, xã hội với xã hội Một trong những phương pháp học tập tốt môn học Địa lí là biết đọc bản đồ, lược đồ, sơ đồ, ; đặc biệt là bản đồ. Bản đồ là một trong những thiết bị dạy học được xem là hiệu quả và rất cần thiết, có vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu, học tập địa lí. Nhà địa lí học Liên Xô Paolôkin đã nói: “ Địa lí và bản đồ không thể tách rời nhau, không có bản đồ thì không có địa lí”. Để học sinh học được tốt môn Địa lí ngoài việc nâng cao và bồi đắp không ngừng vốn kiến thức về tự nhiên và xã hội, đặc biệt là vốn kiến thức Địa lí thì các em cần rèn luyện cách đọc bản đồ, cách chỉ bản đồ cho đúng yêu cầu, thể hiện sự hoàn hảo và chuẩn mực khi trình bày để người khác hiểu và nắm bắt được vấn đề cần truyền đạt. Trên cơ sở các em được lĩnh hội những kiến thức và kĩ năng cơ bản nhất về bản đồ ở chương trình địa lí lớp 6, đa phần các em chỉ được tìm hiểu và nắm bắt những vấn đề chung nhất của Địa lí tự nhiên đại cương, kĩ năng đọc và chỉ bản đồ các em chưa được tiếp xúc và rèn luyện nhiều, bởi nội dung chương trình ít
  2. liên quan đến bản đồ. Còn trong chương trình Địa lí lớp 7 , 8 & 9 chủ yếu là nghiên cứu Địa lí tự nhiên, Địa lí kinh tế thế giới, khu vực và Địa lí tự nhiên Việt Nam các em có nhiều điều kiện để tiếp xúc với bản đồ, lược đồ vì vậy việc hình thành kĩ năng để các em biết khai thác được những tri thức địa lí trên bản đồ, biết làm việc trên bản đồ qua các bài dạy, biết ứng dụng vào thực tế cuộc sống là rất cần thiết. Từ thực tế đó, qua nhiều năm giảng dạy tôi đúc kết được kinh nghiệm và mạnh dạn đưa ra chuyên đề “phương pháp phân tích lược đồ phục vụ cho dạy môn địa lí ở trường THCS” 2. Mục đích nghiên cứu: - Nắm được kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ của học sinh. - Xác định phương pháp dạy học đúng đắn, phù hợp với thực tế. - Nâng cao kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ cho học sinh lớp THCS. II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LƯỢC ĐỒ TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 1. Mặt tích cực: Nhìn chung trong nhà trường, các thiết bị - đồ dùng phục vụ cho môn học được trang bị khá đầy đủ, giáo viên tích cực đầu tư vào tiết dạy, các thiết bị - đồ dùng cũng được sử dụng khá triệt để. 2. Mặt hạn chế: Mặc dù các thiết bị được nhà trường đầu tư đầy đủ nhưng vẫn còn không ít giáo viên khi gỉảng dạy đều sử dụng biểu đồ, lược đồ trong sách giáo khoa mà ít sử dụng các bản đồ treo tường vì ngại mất thời gian tìm bản đồ, mất nhiều thời gian trong các tiết dạy, dẫn đến việc ít rèn luyện kỹ năng cho các em. Một bộ phận giáo viên khác nhận thức về việc dùng bản đồ chưa đúng nên các tiết học yêu cầu sử dụng bản đồ thì không sử dụng, dựa hoàn toàn vào lược đồ trong sách giáo khoa để
  3. dạy mà không quan tâm học sinh có thấy hay không? Vì thế các tiết dạy và học thiếu sinh động, chưa phát huy được tính tư duy sáng tạo của học sinh dẫn đến kết quả học tập của học sinh ở bộ môn còn hạn chế. III. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ 1. Phương pháp tích luỹ kiến thức: Để học sinh hiểu bản đồ, trước hết cho học sinh biết “Bản đồ là gì ?”, sau đó cho học sinh hiểu tác dụng của bản đồ trong học tập địa lí là hết sức cần thiết. Vì có như thế mới làm cho học sinh tự giác học, làm việc với bản đồ. Giáo viên thường xuyên nhắc nhở các em cần học bài, soạn bài đầy đủ, cần thường xuyên tiếp xúc với sách giáo khoa, bản đồ, nhằm tích luỹ kiến thức địa lí. Vì không có kiến thức cần thiết thì các em khó lòng nắm bắt được các sự vật, hiện tượng địa lí một cách rạch ròi chứ chưa nói đến cách đọc bản đồ, lược đồ để tìm kiến thức. Mặt khác giáo viên cần trang bị cho các em kiến thức địa lí kinh tế tổng hợp, đặc biệt mối quan hệ biện chứng giữa vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội để hiểu sự phát triển kinh tế của một lãnh thổ nào đó. Đây là những kiến thức rất cần thiết và trọng tâm của chương trình địa lí THCS 2. Phương pháp rèn luyện kĩ năng phân tích lược đồ: Để hình thành kĩ năng đọc bản đồ cho học sinh, là kỹ năng tương đối khó và phức tạp đối với các em, tùy theo khối lớp học, yêu cầu bài học, từng bước GV hướng dẫn rèn luyện dần. Đọc bản đồ không phải là đọc những chỗ, các kí hiệu trên bản đồ một cách máy móc đây là ngọn núi gì?, con sông nào? thành phố gì ? “Đọc bản đồ là thông qua những kí hiệu trên bản đồ mà phân tích và nhìn thấy những khu vực bề mặt Trái Đất được thể hiện trên bản đồ” (theo NN Baranxki) HS phải vận dụng đồng thời cả những kiến thức về bản đồ cũng như kiến thức về địa lí. Trên cơ sở hiểu biết tính quy ước và tính khái quát của bản đồ => HS có thể tìm
  4. ra những tri thức địa lí trên bản đồ. Với yêu cầu giảng dạy Địa lí từng khối lớp, kỹ năng được rèn luyện phải đáp ứng yêu cầu mục tiêu bài học, vừa sức với HS, GV phải chuẩn bị trước, lựa chọn bản đồ phù hợp với nội dung bài học, nghiên cứu suy nghĩ tìm ra kỹ thuật sử dụng bản đồ sao cho hợp lý. Trước khi lên lớp phải nghiên cứu trước bản đồ, nhớ kỹ vị trí những chỗ giảng đến, phối hợp bản đồ những chỗ giảng như thế nào? nghiên cứu kỹ nội dung bài, xác định mục tiêu, yêu cầu hoạt động dạy học, soạn kỹ giáo án, sử dụng đúng lúc thì mới đạt được hiệu quả như mong muốn. 2.1. Phương pháp sử dụng bản đồ treo tường: * Đọc và chỉ bản đồ: - Một trong những nhiệm vụ cơ bản của việc dạy học địa lý là rèn luyện cho học sinh tính độc lập trong việc tiếp thu kiến thức địa lý. Do đó giáo viên cần đặc biệt chu ý đến việc hình thành ở học sinh phương pháp học tập tích cực chủ động. Giáo viên trước hết phải hình thành kĩ năng kĩ sảo cho mình trong việc sử dụng bản đồ trước đã, rồi hướng dẫn học sinh cách sử dụng bản đồ. Nếu giáo viên mà còn lúng túng khí sử dụng bản đồ thì cũng không thể hướng dẫn học sinh sử dụng bản đồ tốt được, vậy nên giáo viên trước khí lên lớp phải nghiên cứu bản đồ thật kĩ thấu đáo, hiểu sâu sắc nội dung bản đồ. Phải xây dựng hệ thống câu hỏi trước khoa học, chặt chẽ thì tiết học sẽ sâu sắc. - Hệ thống kiến thức địa lý trong nhà trường phổ thông với bản đồ rất nhiều, chúng ta phải phân tích, chọn lọc trình bày kiến thức trong từng bài cho phù hợp. - Giáo viên cần thường xuyên rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo sử dụng bản đồ cho học sinh vì đây là vấn đề rất quan trọng, trong đó học sinh hoạt động độc lập, tích cực chủ động dưới sự hướng dẫn của giáo viên là quan trọng nhất. - Trước khi cho học sinh lên chỉ bản đồ giáo viên cần hướng dẫn cho các em chú ý vào phần chú giải xem có đối tượng địa lý nào cần nắm được.
  5. VD: Bản đồ tỉ lệ diện tích và lục địa trên thế giới. Lớp 6 + Trước hết giáo viên phải hỏi nội dung hình: HS trả lời: Tỉ lệ diện tích lục địa và đại dương ở nửa cầu Bắc và Nam. + Thang màu thể hiện điều gì: Màu xanh là đại dương, màu vàng là lục địa. + Sau đó giáo viên gọi học sinh lên chỉ diện tích lục địa và đại dương. Từ những câu hỏi, rồi từ việc giao cho các em làm các thao tác như trên chúng ta đã biến người giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn người trực tiếp tìm ra đáp án là học sinh, học sinh sẽ thấy hứng thú trong tiết học. - Trong các bài giáo viên phải thường xuyên gọi học sinh lên chỉ bản đồ: + Chú ý cho các em cầm que chỉ bản đồ tay phải và đứng về bên phải, tránh hiện tượng để các em đứng giữa bản đồ ở dưới lớp không quan sát được. + Chú ý rèn ngày kĩ năng chỉ bản đồ cho các em: VD chỉ theo ranh giới thì phải chỉ theo men ranh giới thật chính xác, khoanh đúng vị trí, hoặc đối với sông ngòi phải chỉ từ thượng nguồn đến hạ nguồn, tránh tình trạng học sinh chỉ ngược dòng sông, hoặc đối với việc chỉ các dãy núi thì cũng cần hướng dẫn các em chỉ đúng theo hướng núi , nhắc nhở học sinh 1 vài lần thì sẽ trở thành kĩ năng của các em. Kĩ năng này phải tạo dựng ngay từ khi các em vào học lớp 6, sau này chúng ta không cần hướng dẫn cụ thể như thế nữa.
  6. + Học sinh chỉ xong phải có học sinh khác nhận xét xem là đúng sai ở chỗ nào và nhờ luôn em đó chỉ lại cho chính xác. Tuy nhiên giáo viên phải hướng dẫn tránh để học sinh xa đà quá vào việc chỉ mà giáo viên chỉ lại để học sinh sửa lần sau. Tăng cường gọi những em chưa biết cách chỉ và uốn nắn từ từ động viên khích lệ các em. Đây là khâu quan trọng khi lên lớp của giáo viên địa lý. Dễ nhìn nhất là cho các em khai thác kiến thức trong bản đồ sgk xong gọi các em lên chỉ trên bản đồ treo tường. Đọc bản đồ là phương pháp tổng quát chung cho tất cả các học sinh, nó giải quyết những nhiệm vụ lớn của việc học tập địa lý. * Mô tả và nêu đặc điểm hiện tượng - Nội dung chính của việc mô tả và nêu đặc điểm hiện tượng là quan sát, mô tả hoặc nêu những đặc trưng cơ bản về sự phân bố, về số lượng, chất lượng, , cấu trúc của quá trình phát triển của hiện tượng. Muốn vậy học sinh cần nắm được ngôn ngữ bản đồ để đọc và hiểu bản đồ. Đây là phương pháp làm việc tích cực trong dạy địa lý, do đó cần áp dụng rộng rãi trong các khâu lên lớp. - Kĩ năng mô tả và nêu đặc điểm đối tượng địa lý sẽ được hoàn thiện dần dần trong hệ thống công việc kế tiếp nhau. - Lúc đầu giao cho học sinh công việc chỉ trên bản đồ những kí hiệu riêng biệt, và nêu đặc điểm đối tượng nghiên cứu trên bản đồ. ở mức độ cao hơn, học sinh có thể bỏ qua những dấu hiệu bên ngoài, phát hiện và chỉ ra những nguyên nhân bên trong, những mối liên hệ tương hỗ của hiện tượng. Ví dụ: Nghiên cứu giao thông trên biển và đại dương không chỉ biết dấu hiệu trên mặt biển và đại dương, mà còn biết cả gió bão và dòng biển ảnh hưởng đến việc đi lại, độ mặn của biển ảnh hưởng đến trọng tải tàu, độ nông sâu, các bãi đá và san hô ngầm thường gây tai nạn giao thông
  7. - Đọc và chỉ bản đồ, so sánh trên bản đồ, mô tả và nêu đặc điểm đối tượng là việc làm thường xuyên và có hệ thống từ giáo viên đến học sinh, từ lớp dưới lên lớp trên, nên tạo thói quen khi sử dụng bản đồ. Nhưng muốn đọc chính xác bản đồ đòi hỏi phải nắm thật chắc kí hiệu bản đồ. Còn chỉ bản đồ nó thể hiện học sinh nắm nội dung bài học đến đâu và có sâu sắc không. 2.2. Phương pháp sử dụng át lát địa lý - Trong khi giáo viên sử dụng bản đồ treo tường để giảng bài mới, thì học sinh vừa nghe vừa ghi, vừa theo dõi bản đồ tương ứng trước mặt học sinh, đó là bản đồ trong át lát. Át lát có ưu thế đặc biệt ở chỗ là, giáo viên và học sinh nhanh chóng nhìn thấy ngay tất cả nội dung trong bài giảng trên bản đồ, và có ý nghĩa rất lớn khi dùng phương pháp chồng khít lên nhau so sánh các bản đồ trong át lát. Khi học bài ở nhà, học sinh không cần học bài bắt đầu trong sách giáo khoa mà bắt đầu từ át lát đặt trước mặt và cần phải tìm thấy ngay lập tức tất cả đối tượng địa lý trong át lát để nhớ lại bài học ở lớp, át lát còn được dùng để giải thích các mối quan hệ địa lý, xác định các mối quan hệ nhân quả và dùng nó để giải thích các mối quan hệ này. - Khi sử dụng át lát giáo viên cùng chú ý hướng dẫn học sinh cách sử dụng: Trước hết phải đọc trang đầu át lát với những kí hiệu chung nhất, nếu thuộc rồi thì việc khai thác các yếu tố địa lý trên át lát cực kì đơn giản. Chú ý hướng dẫn học sinh sử dụng phần cuối của át lát bảng tra cứu thuật ngữ địa lý và các chữ viết tắt. VD: Khi cho học sinh sử dụng át lát: Trước hết cho học sinh đọc kí hiệu chung: Về: (Yêu cầu học sinh phải học thuộc các kí hiệu chung) vì có thuộc kí hiệu thì nhìn vào bất cứ bản đò nào cũng có thể phát hiện kiến thức nhanh và chính xác. + Các yếu tố tự nhiên: Phân tầng địa hình, điểm độ cao, độ sâu, núi lửa, san hô, sông, hồ, kênh dào, dòng biển, vùng băng tuyết, hoang mạc, rừng + Các yếu tố hành chính - chính trị - dân cư: Tên nước, thủ đô, điểm dân cư + Các chữ viết tắt: Núi, Đồng bằng
  8. + Trong mỗi trang át lát bao giờ cũng có phần chú giải chi tiết và rất hay, nhiều kiến thức mới cập nhật, giáo viên phải giới thiệu để học sinh khám phá. + Phần cuối át lát là cách để học sinh tìm địa danh: GV có thể hỏi 1 vài địa danh để học sinh tìm cho quen và thuần thục. + Đối với át lát địa lý: Có 2 loại cho học sinh đó là át lát địa lí thế giới và các châu lục, và át lát địa lí Việt Nam: + Giáo viên cần hướng dẫn học sinh mua vào thời điểm nào cho thích hợp: VD: Đối với lớp 7 rất cần thiết là quyển át lát địa lý các châu lục bắt buộc đối với các em là phải có, vì nội dung chính trong chương trình địa lý 7 là nghiên cứu về địa lý các châu lục. Thì rất thuận lợi cho giáo viên khi dạy về bất cứ châu lục nào, học sinh nếu như nghiên cứu trước về các châu lục đố các em đã có chút ít kiến thức rồi, nên sẽ hăng hái hơn. Và thậm chí có những nội dung mà sách giáo khoa không đề cập đến thì át lát có thể có, hoặc những điều giáo viên chưa nói thì trong át lát cũng có điều này giáo viên phải hướng dẫn các em nghiên cứu. Quyển át lát này có thể sử dụng sang học lớp 8. Đối với học sinh lớp 8 thì yêu cầu là phải có át lát Việt Nam, nó là tư liệu mà học sinh có được xuyên suốt kì 2 của lớp 8 và lớp 9 thậm chí còn để dùng sang học cấp 3. Và nó được sử dụng khi thi cử rất thuận lợi cho các em. Như vậy nếu như chỉ cần có quyển át lát nếu HS nào mà thực sự muốn khám phá thì toàn bộ nội dung kiến thức được thể hiện hết trong đó, học sinh sẽ trở thành người tự học và học giỏi về bộ môn địa lý. 2.3. Phương pháp sử dụng bản đồ trong sgk - Mỗi bài học địa lý ở lớp trên đều có chủ đề chính, những chủ đề này thường có những bản đồ riêng hoặc những bản đồ kết hợp biểu hiện nội dung bài học. Do đó biểu hiện bằng nét đứt đen trên nền giấy trắng, hoặc in vài màu nhưng tỉ lệ rất nhỏ nên bản đồ chỉ thể hiện được vài nội dung chính của bài học, không thể hiện nội
  9. dung phong phú như bản đồ tương ứng trong át lát, nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong lĩnh hội kiến thức quan trọng theo chủ đề bài, giúp học sinh tư duy địa lý gắn liền với lãnh thổ. - Trong điều kiện không đáp ứng đầy đủ át lát cho các em học sinh thì sách giáo khoa là bản đồ duy nhất để học sinh học tập trên lớp và ở nhà. - Đối với bản đồ sgk cũng giống như mọi bản đồ khác điều đầu tiên ta cần hướng cho học sinh chú ý vào bản chú giải xem các đối tượng địa lý trên bản đồ. - Trong giảng dạy, có khi giáo viên dừng lại trên trang bản đồ này để giải thích, hướng dẫn học sinh quan sát, nêu vấn đề để học sinh trả lời. - Hoặc giáo viên cứ để học sinh phát hiện kiến thức dựa vào bản đồ sgk vì nội dung nó ngắn gọn, dễ khai thác. Khi đó tạo khả năng tự làm việc của các em, gây hứng thú cho các em. các em sẽ cảm thấy phấn khởi nếu như tự mình tìm ra kiến thức mới. VD: H2.1. sgk địa lý 8: - Bài về khí hậu châu Á, nếu như học sinh chỉ cần nghiên cứu vào lược đồ cũng có thể biết được sự phân hoá đa dạng của khí hậu. + Giáo viên có thể hỏi học sinh nhìn vào bảng chú giải cho biết châu Á có mấy đới khí hậu. HS phát hiện ngay là châu Á có 5 đới khí hậu. + Ranh giới các đới như thế nào, yêu cầu học sinh lên chỉ bản đồ. HS dựa vào màu sắc và dựa vào hệ thống vĩ tuyến có thể xác định được ranh giới.
  10. + Trong các đới nó lại được phân chia thành các kiểu: HS có thể nhận thấy ngày bằng các kí hiệu. + Giáo viên yêu cầu HS lên chỉ trên bản đồ: HS sẽ làm được Như vậy phần nội dung kiến thức này là do HS phát hiện ra, học sinh sẽ cảm thấy phấn khởi, hứng thú. Nhưng tất nhiên giáo viên phải dẫn dắt. 2.4. Phương pháp sử dụng bản đồ câm - Bản đồ trống có tỉ lệ lớn hơn thường được giáo viên sử dụng trong các giờ học, dạy đến đâu giáo viên điền nội dung đã chuẩn bị ở nhà vào đến đó. Đây là phương pháp giới thiệu kiến thức mới độc đáo, hấp dẫn thu hút học sinh theo dõi bài giảng mới. - Bản đồ câm dùng cho học trò có tỉ lệ nhỏ hơn, thường đóng thành tập gọi là tập bản đồ. Trong giờ học, học sinh thường để chúng ở trên bàn. Học sinh vừa nghe thầy cô giáo giảng vừa ghi chép, vừa chuyển những nội dung mà giáo viên điền trên bản đồ câm vào bản đồ của mình. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thầy và trò khi sử dụng các loại bản đồ câm ở trên lớp, là phương pháp hình thành biểu tượng và khái niệm cho học sinh một cách tích cực. Giáo viên cũng có thể ra bài tập cho cho học sinh về nhà tự làm việc với bản đồ câm, giúp các em có thói quen làm việc độc lập, nhằm củng cố kiến thức đã học ở trên lớp, chuẩn bị bài để thu nhận những kiến thức mới và rèn luyện kĩ năng bản đồ cần thiết. - Để sử dụng tốt bản đồ câm, trước khi giao nhiệm vụ cho học sinh tiến hành độc lập các công việc trên bản đồ câm, giáo viên giới thiệu đôi nét về bản đồ câm, về mục đích, yêu cầu, nội dung công việc và tác dung của việc làm đối với việc học tập địa lý. - Dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên, chất lượng làm việc với bản đồ câm trong các khâu bổ sung theo bài giảng và thực hành ở lớp, giáo viên ra bài tập về nhà, ôn tập và kiểm tra dần dần được nâng cao, học sinh sẽ có thói quen và hứng thú học tập môn địa lý.
  11. - Bản đồ câm ở các trường chính là tập bản đồ địa lý, giáo viên chú ý khai thác trong đó nội dung khá đầy đủ. - Khi giảng dạy kiến thức mới, giáo viên giới thiệu tài liệu viết cho học sinh, rồi chính tay mình bổ sung nội dung viết lên bản đồ câm trên bảng cùng lúc đó học sinh nghe giáo viên giảng bài và bổ sung lên bản đồ câm tương ứng đặt trước mặt. - Phương pháp này có giá trị ở chỗ nội dung bản đồ câm được tạo nên do chính tay học sinh xây dựng khi theo dõi bài giảng, giúp học sinh hiểu bài sâu và nhớ lâu. Phần thực hành bản đồ có thể tiến hành tại lớp, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, cũng có thể hướng dẫn học sinh là ở nhà dựa trên bản đồ treo tường, át lát và sgk. - Nhìn chung nếu trọng tâm công việc thực hành bản đồ đưa ra phù hợp với yêu cầu kiến thức bài học thì việc bổ sung bản đồ câm trở thành nội dung học tập chính. Nếu trọng tâm công việc không đi sâu vào giải quyết trọng tâm bài học thì giáo viên có thể chuyển sang ngoại khoá hoặc cho làm thêm bài ở nhà. - Giáo viên giao bài cho học sinh về nhà làm thì nhất thiết giờ học sau phải kiểm tra học sinh làm, như thế rèn cho học sinh ý thức tự giác học tập tốt hơn. - Khả năng lĩnh hội kiến thức trong bản đồ câm rất tốt, nó củng cố vững chắc kiến thức đã biết về đối tượng địa lý trên bản đồ, đồng thời nó cũng buộc học sinh phải suy nghĩ, giải thích về đối tượng địa lý đang học tập để tiếp thu và nắm vững nó, nhất là khi quan sát trên bản đồ trong át lát, bản đồ treo tường, vị trí của đối tượng địa lý. Học sing phải tập trung trí lực, chăm chú nhìn căng thẳng vào bản đồ, đánh giá trực tiếp trong óc, tìm vật chuẩn hoặc vị trí đối tượng và cơ sở để đặt chúng vào vị trí tương ứng trên bản đồ câm , Tất cả việc đó không phải là máy móc mà là sự lĩnh hội vị trí địa lý của đối tượng trong mối quan hệ với những đối tượng xung quanh nó học sinh học tập một cách tự giác. Trong quá trình học tập việc hình thành kỹ năng này liên tiếp được tiến triển từ thấp đến cao. GV cần phải có kế hoạch từng bước, liên tục bồi dưỡng cho HS những tri thức bản đồ. Việc học tập kết hợp bản đồ dần giúp HS nhớ, thuộc bản đồ,
  12. khi không nhìn bản đồ cũng có thể nhớ ra trong đầu óc. Phương pháp nhớ, thuộc bản đồ chính là luyện tập nhiều cho HS quan sát thường xuyên, đọc bản đồ, làm bài tập qua các tiết ôn tập, thực hành trên bản đồ GV chú ý kết hợp đối tượng trên bản đồ với đặc điểm địa phương đó. Sách giáo khoa địa lí hiện nay được biên soạn theo chương trình đổi mới nên kênh hình màu sắc thể hiện khá rõ ràng. Riêng lược đồ trong sách giáo khoa được trang bị hầu hết ở các bài có yêu cầu sử dụng nên việc giảng dạy của giáo viên cần kết hợp sử dụng bản đồ treo tường với lược đồ trong sách giáo khoa. GV hướng dẫn HS đối chiếu so sánh để phát huy tốt hiệu quả học tập địa lí của HS qua sử dụng bản đồ. Nội dung kiến thức, kỹ năng cần rèn luyện trong bộ môn địa lí ở các khối khá nhiều. Thời gian phân bố cho việc giảng dạy và học tập đôi lúc còn chưa phù hợp. HS trình độ chưa đồng đều trong việc thực hành, giảng dạy kết hợp sử dụng bản đồ, tôi thường cho HS làm việc theo nhóm nhỏ, cặp: Một HS kiến thức địa lí cùng kết hợp một HS xác định trên bản đồ treo tường. Phương pháp này tôi thấy HS hứng thú, tích cực tham gia; các em trung bình, yếu, kém, mạnh dạn hơn trong việc xác định bản đồ, đọc bản đồ. Tôi cho các em chơi trò chơi đoán ô chữ tìm ra vị trí, các địa danh, sông, núi , tìm các nước trên bản đồ khu vực và thế giới Ở một số bài học tôi yêu cầu HS vẽ các lược đồ trong SGK nhằm củng cố khắc sâu kiến thức từ bản đồ, xem thông tin dự báo thời tiết sẽ giúp các em nắm bản đồ tự nhiên, hành chính, kinh tế, xã hội của: Việt Nam, khu vực, thế giới Trong quá trình giảng dạy từng bước rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ biết kết hợp bản đồ trong học tập địa lí cũng như trong thực tế cuộc sống sau này . Ngoài ra giáo viên cần tạo không khí nhẹ nhàng, thoải mái trong giờ học để từ đó các em có niềm yêu thích môn học. Thường xuyên theo dõi, khuyên bảo, uốn nắn kịp thời những sai sót của học sinh, đồng thời động viên, khen thưởng những
  13. tiến bộ vươn lên trong học tập. Cần đặt nhiều câu hỏi kích thích tính tò mò của học sinh và tạo nhiều cơ hội để các em được làm việc nhiều với bản đồ và lược đồ. IV. KẾT LUẬN Hiện nay nước ta đang trong thời kì hội nhập, việc trang bị kiến thức địa lí cũng rất cần thiết. Việc sử dụng khai thác bản đồ của GV trong giảng dạy thuần thục và linh hoạt, giúp HS hứng thú, yêu thích giờ địa lí hơn. Có thể nói bản đồ là công cụ chủ yếu trong việc giảng dạy địa lí, GV cần nắm vững và vận dụng tốt vào công việc giảng dạy . Rèn luyện được kĩ năng này không phải một sớm một chiều là được mà đòi tính kiên trì, bền bỉ trong ý thức vươn lên trong học tập. Trên đây là một số suy nghĩ và biện pháp chỉ mang tính lí luận nhiều hơn vì thực tiễn giảng dạy mới chỉ một năm thực hiện đề tài nên để đánh giá hết tính hiệu quả của nó nhất là việc hình thành được kĩ năng kĩ xảo về đọc và chỉ bản đồ cho học sinh chắc sau một vài năm nữa sẽ chính xác hơn. Sự học là một nổ lực không ngừng. Trên đây là một chút kinh nghiệm của cá nhân được đúc kết lại qua các năm giảng dạy, chắc hẳn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn. V. TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN a. Dạy minh họa: Cô Nguyễn Thị Hiền dạy Địa lí 6 Cô Nguyễn Thị Liên dạy Địa lí 7 Cô Phạm Thị Hồng Tịnh dạy Địa lí 8 b. Dự kiến thời gian: thực hiện trong tháng 10 môn Địa lí 6. Còn Địa lí 7 và 8 sẽ thực hiện ở học kì 2. c. Các thành viên trong nhóm dự giờ, rút kinh nghiệm, sau đó tổ chức áp dụng dạy đại trà theo quy định của chuyên môn.